Lá thu về nhuộm đỏ ối cánh rừng nhỏ. Mây trắng lãng đãng bay về cuối nẻo trời xa. Người thanh niên ngồi ở ven đồi, trầm tư. Chàng đến đây khi sương thu chớm về. Những ngày đầu tiên trên đất lạ là những ngày lênh đênh nhất đối với chàng. Lo âu cho tương lai. nhớ thương quá khứ. Hiện tại thì vất vả. Gia đình chàng ở lại bên kia. Ra đi một mình. Chỉ riêng có giấc mơ mà chàng đang ấp ủ là người bạn song hành. Nhưng giấc mơ chẳng nuôi được chàng, mà chàng lại phải âu lo vì giấc mơ.


Mùa thu đó chàng vào chủng viện, tiếp tục con đường lý tưởng. Nhưng dòng thời gian không êm đềm như chàng mộng tưởng. Những weekend lặng lẽ, nhìn hành lang dài trống vắng mà chàng thấy như nỗi vắng trong tâm tư chàng. Sương sa, gió lạnh dần dần thấm vào hồn. Những cánh mây tím cũng theo mùa thu về bắt đầu mang nỗi hắt hiu trên từng lời kinh. Những giờ nguyện của chàng bắt đầu mệt mỏi, có nghĩ ngợi mông lung.

Cuối năm học đó, Đức Giám mục địa phận sai chàng về một xứ đạo nhỏ để tập làm quen với đời sống mục vụ. Chính trong mùa hè này, câu chuyện đã xẩy ra.

Nhận được thư Đức Giám mục báo tin đi giúp xứ mùa hè là một ngày u ám trong đời. Chàng không muốn đi thực tập mục vụ, nhưng muốn đi làm. Chàng cần tiền. Tiền đã dầy vò chàng không biết bao nhiêu đêm trằn trọc. Chàng luôn nghĩ đến tiền. Nhưng là sinh viên thần học, nên đức cha muốn chàng đi thực tập mục vụ để chuẩn bị cho cuộc sống linh mục. Khi nhận được thư đức cha là giấc mộng đi làm sụp đổ, kéo theo giấc mơ về tiền. Khi người ta không thực hiện được giấc mơ thì người ta lại càng nghĩ về nó. Nghĩ về nó mà không thực hiện được thì người ta sống trong một thứ ngục tù tâm hồn. Ðó là vây khổn của oán trách, của tiếc xót, của bất bình.

Ở nhà trường, mỗi tháng chàng nhận được hai mươi dollars của địa phận gởi, gọi là tiền túi. Thủa ban đầu, chàng cho là đủ, không thắc mắc, băn khoăn. Nhiều tháng hãy còn dư. Nhưng dần dà, có những cơn gió so sánh bay về. Chàng so sánh chàng với người khác. Tôi cũng có bàn tay, cũng có khối óc, sao cam nhận mỗi tháng hai chục… và chàng thấy mình nghèo! nhận mỗi tháng hai mươi đồng đó là dấu hiệu của sự khiêm nhường, dâng hiến, và sống đơn giản vì lý tưởng hay là cam chịu đời sống tầm thường? Chàng tự hỏi, rồi, những làn sóng tự ái bắt đầu gieo trên biển lặng. Người thanh niên trở nên trầm mặc, băn khoăn.

Xã hội nói về tiền. Giá trị con người cũng được đánh giá bằng tiền. Những kẽ nứt của tâm hồn bắt đầu mở rộng. Chàng thấy mình xót xa, và thực sự thấy mình nghèo. Nghèo vì tiền và nghèo cả tâm hồn. Khuôn mặt chàng không còn bình an, tâm hồn chàng không còn muốn bay bổng cho một lý tưởng. Buổi chiều cầu kinh nào cũng phủ đọng sương mù ẩm mốc. Lý tưởng là gì? Có ai cần lý tưởng nữa đâu? Chàng tự hỏi, rồi thấy con đường của chàng bước vào là cô đơn đằng trước mặt. Là mất mát, thua thiệt.

Chàng nói với lòng mình, là thanh niên như bao người khác tại sao tôi không làm ra tiền? Chàng sống giữa hai thách đố mà thách đố nào cũng lớn lao: tiền và không có tiền. Không tiền có phải là kém hơn người khác? Có phải vì tôi thiếu khả năng? Không tiền có phải là điều dại? Tự ái, như những cơn mưa nặng hạt mưa xuống đời người thanh niên. Tiền làm chàng nhớ về những người thân ở bên kia bờ biển mặn. Tiền làm chàng mơ ước một đời sống tiện nghi. Tôi có nên tiếp tục con đường tôi đang đi? Tôi có nên đem khả năng của mình vào cuộc thử sức của xã hội hôm nay? Mệt mỏi. Sóng gió đi về. Chàng muốn đặt lại lý tưởng cho cuộc sống.

Chính vì thế mà những ngày đầu mùa hè ở nhà xứ năm ấy là những ngày u ám và lặng lẽ nhất đối với chàng, chàng quay quắt suy tư. Cõi lòng hoang vắng, đìu hiu. Cũng có đôi lúc thầm lặng, chàng hỏi lại lòng mình, ngày xưa tôi đâu quá bận tâm về tiền, sao bây giờ tôi phải thao thức quá như vậy? Trong những lúc thinh lặng ấy, những lúc tỉ tê hỏi lại cõi lòng, những lúc tìm đường về thâm sâu của trái tim, chàng dần dà nhìn ra cái nghèo chua xót: Nghèo của một tâm hồn. Chàng băn khoăn tự hỏi: Khi tâm hồn nghèo thì kéo theo bao nhiêu cái nghèo khác?

Cái cao cả mà Thiên-Chúa đã làm, không phải là sống tước vị Thiên Chúa trong Thiên Chúa, nhưng là sống tước vị Thiên Chúa nơi con người. Chúa đã đem cái nghèo trở thành mùa xuân bất tận. Chàng biết vậy, nhưng đường đi của niềm tin thì siêu bạo quá. Niềm tin là giã từ tất cả. Là buông tay ra cho mình chìm xuống, lặng lẽ. Trong những tháng ngày giằng co muộn phiền thì câu chuyện xẩy đến:

Cũng như những thứ sáu khác trong tuần, hôm đó chàng mang Mình Thánh cho một bà già trong xứ đạo. Trời đã về tối. Chàng thích đi bộ để nhìn cỏ cây, để nghĩ về mình, về người. Trời chưa tối lắm nhưng phố xá đã lên đèn.

Từ nhà xứ đến nhà bà, chàng phải đi ngang qua phố, đây là một con phố nhỏ ở miệt quê rồi vào đường Broadway, Broadway là con đường lý tưởng nhất của thành phố. Ðường rộng và đẹp, có chiều đi, chiều về. Giữa hai chiều là hàng cây anh đào rợp mầu hồng khi mùa hoa nở. Chàng đi chậm rãi trên con đường ấy, nguyện mong cho đời nhẹ bớt ưu tư. Trên đường đi, có kẻ đi ngược, có người về xuôi, nhưng có ai đâu biết rằng trong túi áo chàng có Mình Thánh Chúa. Trời tối hơn. Ðèn của phố xá cũng sáng hơn. Mây tím về cuối cánh đồng, cũng là màu u uẩn của cõi lòng người thanh niên. Ðèn đường chẳng thắp sáng được linh hồn. Tâm tư chàng giăng mắc với những lựa chọn mà bên nào cũng có xót xa. Ở hay đi? Giã từ lý tưởng hay tiếp tục? Ðời linh mục là gì? Niềm vui, đau khổ? Làm sao tôi biết chắc được đây là lý tưởng mà Chúa muốn tôi đi vào? Trung thành, gian nan? Mệt mỏi. Mong thêm một chút ánh sáng cho bớt suy tư. Chàng nhìn trời cao. Chúa xa quá. Im lặng qúa. Im lặng quá. Chỉ mình chàng trên đường. Chàng mong một chút sương mai cho mảnh đất khô đỡ cằn cỗi. Chàng ước ao một lời nói rõ hơn, mạnh hơn để chàng bớt gian nan với những nghĩ ngợi. Nhưng trời cao vẫn cao. Ðêm về nhiều hơn.

* * *

Bên bụi hồng, đứa bé gái đang chạy tung tăng, cô bé đứng lại, giơ tay vẫy chàng. Bàn tay thiên thần. Nụ cười bình an. Ðôi mắt hồn nhiên như vì sao trời. Cô bé giơ tay vẫy vẫy. Những ngón tay mũm mĩm, đơn sơ. Nụ cười tươi như một búp phong lan đang hé mở. Cô bé lại tiếp tục chạy, những bước chân sáo vui tung tăng trên thảm cỏ xanh mịn. Hạnh phúc nở hoa theo từng bước chân vô tư. Cô bé đang vui. Và chắc hẳn thiên đàng cũng đang vui lắm. Người vỗ về trong tim. Cô bé vấp ngã. Bàn tay non vụng về để hạnh phúc vượt theo chiếc bong bóng đỏ bay cao. Chiếc bong bóng từ từ xa dần, lên cao, lên cao. Cô bé đứng nhìn ngẩn ngơ, tiếc nuối. Nghe như mùa xuân lắng đọng. Những viên ngọc nhỏ lăn dần trên má. Bé khóc.

Cô bé là cánh hoa bạch huệ tỏa hương hạnh phúc. Khi tung tăng với chiếc bong bóng, mỗi ngón tay nhỏ là một chiếc đũa tiên có phép mầu rải niềm vui trên từng cọng cỏ ngoan hiền. Bước chân bé đã làm cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc ca yêu thương của khu vườn. Bé đã cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc bong bóng bay cao. Xa tít. Xa tít. Buồn như chú mèo nhỏ, bé lững thững vào nhà. Qua vuông cửa sổ, chàng thấy ánh đèn. Nơi ấy, có tình yêu, có hơi thở.

Mầu vàng của khóm tulips với mầu trắng ngà của con đường trải đá cuội, hòa vào mầu cỏ non xanh, làm cho căn nhà thêm êm đềm, như một lời cầu chúc hạnh phúc cho những bước chân nào đặt tới. Giàn hoa hồng nở đỏ thẵm trên vuông cửa sổ. cạnh bụi hồng là những giây hoa tím nhỏ đang leo trên tường đá. Tất cả nhắc nhở đến sự săn sóc của một bàn tay biết nghệ thuật. Mầu đỏ thẫm của bụi hồng làm cho căn nhà có vẻ đài các, nhưng lại hoà chung một thứ buồn dịu dàng, mồ hôi của sắc hoa mầu tím thầm lặng. Lối kiến trúc của căn nhà nói lên sự giầu có của người làm chủ.

Cách nhau một hàng rào gỗ thấp mà bên kia là giầu sang, và ở đây, chàng đứng một mình như thân phận Lazaro nghèo khổ. Chàng thấy nghèo là một chua xót. Cái nghèo làm người ta mất giá. Không ai muốn làm bạn với người nghèo. Có tiền thì có quyền thế. Có quyền thế thì có điạ vị. Nghèo là một cõi vắng lặng lẽ. Nghèo thì bị coi thường, có khi còn bị khinh rẻ. Tiền như một thứ đánh giá thành công của một người. Chàng tiếp tục nghĩ: Nếu Chúa Kitô là một Ceasar giầu có thì đâu có bị xua đuổi, có khi còn có lắm người theo. Có tiền thì được kính nể. Tiền là tiêu chuẩn xác định tài năng. Chàng thấy không tiền là một nỗi chua xót.

Cô bé chẳng ra sân chơi nữa. Chắc bé đang phụng phịu kể cho má nghe về chiếc bong bóng đã bay xa. Người thanh niên để tình cảm của mình nhẹ nhàng đi về một miền cô đơn. Trong căn nhà đó, có hơi thở, có tình yêu, có tiếng khóc, có tiếng cười, có những gì là căn bản nhất mà Chúa đã dựng nên trong thân xác, linh hồn chàng. Chàng lại tự hỏi, đời sống linh mục là gì? Tôi cũng như bao nhiêu người khác sao tôi lại không thể có một tình yêu riêng tư? Người thiếu nữ nào mà đáng lẽ cùng tôi chia sẽ yêu thương? “Nàng là xương là thịt ngươi, bởi đó, ngươi sẽ bỏ cha mẹ mình mà khăng khít với nàng.” (Gen. 2:23-24) Lời Kinh-Thánh thủa xưa vẫn vang lên như một lệnh truyền thôi thúc trong chàng, chảy theo từng dòng thời gian trong cuộc sống, nhắc nhở về “một phần đời” của chàng. Nàng là ai, ở đâu? Tên nàng là gì? Ðó chỉ là huyền thoại hay là thực thể? Vì sao tôi không thể có nàng? Trong căn nhà ấy, có nụ cười trẻ thơ, có tiếng gọi ba, có tiếng gọi má, sao không thể là tôi? Máu tôi vẫn đỏ theo từng nhịp tim đập, vì sao tôi chẳng thể bao giờ được nghe tiếng ba, được gọi tiếng con. Chàng ngước nhìn trời cao. Trời vẫn lặng lẽ, vô tư. Chàng muốn vẫy gọi niềm tin. Chàng muốn nghe niềm tin đáp trả.

Không biết người thanh niên đã để hồn mình xuôi về nẻo đơn độc ấy, để lòng mình chìm vào những dòng tư tưởng ấy bao lâu, nhưng chắc hẳn là lâu lắm. Khi chàng vô tình đưa tay lên ngực thì chợt nhớ ra chiếc hộp đựng Mình Thánh còn đó. Lãng quên đưa chàng về một chút hối hận, ngỡ ngàng. Chàng úp tay trên chiếc hộp, tự hỏi. Cả bầu trời cao ở nơi đây. Cả niềm tin mà tôi đang đi tìm ở nơi đây. Có thật là niềm tin? Có thật là trời cao? Chàng mở chiếc hộp nhỏ. Những tấm bánh trắng vẫn im lặng, âm thầm.

Ngày xưa tà thần đã nói với Đức Kitô: Nếu ngươi bái thờ ta, ta sẽ cho ngươi tất cả vinh quang của trần gian (Luca 4:6-8). Người thanh niên nhìn tấm bánh thầm nghĩ, nếu hôm nay, cũng lời ấy nói với tôi: “Nếu ngươi đổi tấm bánh này cho ta, ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi đang mơ ước.” Vùng trán mang vết nhăn. Người thanh niên bối rối. Chàng không trả lời được. Có được một số tiền đã là thành công. Dệt được ước mơ là một niềm vui lớn. Giờ đây, chàng phải đối diện với câu hỏi mà chàng không bao giờ ngờ. Nếu có ai cho chàng những ước mơ chàng đang mơ ước, chàng có bằng lòng đổi tấm bánh này không. Tấm bánh nhỏ bé quá, yếu đuối quá. Dáng chàng ưu tư, chàng hỏi lại lòng: Ðây có là cả bầu trời cao? Ðây có là Thiên Chúa của vũ trụ? Người thanh niên xót xa cho mình vì chàng không đủ niềm tin để xác nhận. Chàng tin rằng Ngài là Thiên Chúa đó. Nhưng tình yêu của chàng quá nghèo nàn nên không nuôi nổi niềm tin. Chàng lặng nhìn tấm bánh trên tay mà như chàng ứa lệ. Nỗi cô đơn về mênh mông. Chàng thấy lạc lõng. Suối nguồn đã đang cạn khô. Chàng lại nhìn trời cao. Trời cao vẫn im lặng. Chàng cúi đầu xót thương mình. Vì sao trời cao không đáp trả? Trong sự im lặng ấy, dường như có tiếng nói với người thanh niên: “Nếu ngươi mất Ta trong cõi lòng ngươi thì ngươi phải trở về trái tim của mình, Vì chỉ nơi ấy ngươi mới tìm lại được Ta, mới có tiếng đáp trả mà thôi.”

* * *

Có nỗi cay ở mắt. Chàng thấy hồn mình chứa chan. Hình ảnh ông già làm chàng bối rối. Trong tim chàng, có an ủi đi trên xót xa, có ngọt ngào chen lẫn đớn đau. Nuối tiếc. Ngại ngùng. Mênh mông. Sám hối. Một thứ tình cảm bâng khuâng giữa tình trời và tình đất. Ông già đã theo chàng ra tới tận cổng. Ðôi tay gầy, lạnh lẽo, nắm chặt lấy tay chàng biết ơn. Ðã bao lần trong đời, chàng bắt tay người này, kẻ kia. Cái bắt tay nào ấm tình, cái nào xã giao. Ánh mắt nào chân thành, lời nói nào đãi khách, điều đó, ai mà chả nhận thấy. Hai tay run run cầm chặt lấy tay chàng. Người thanh niên biết ở trong bàn tay ấy gởi chàng lời cám ơn thành thật. Lời nói không thể che kín được nỗi lòng và nỗi lòng không cần ngôn ngữ để diễn tả. Ông run run xúc động: “We need you.” Ông chỉ nói với người thanh niên vỏn vẹn như thế thôi, trước khi chia tay.

Khi chàng tới nơi thì bà đã ngồi trên xe lăn, đợi sẵn ở phòng khách. Nghe bấm chuông, ông ra mở cửa. Chào chàng kính cẩn, thái độ của những người già miền quê đối với một linh mục. Căn nhà vắng lặng, chỉ có hai ông bà. Bà đã bị tê liệt từ mười bẩy năm nay. Xe lăn là quê hương duy nhất. Những mạch máu mầu xanh nổi gầy guộc trên đôi tay cố gắng giơ lên làm dấu thánh giá. Giây phút thiêng liêng nhất. Bà kính cẩn cúi đầu chịu Mình Thánh Chúa. Ông đứng bên cạnh, chắp tay. Ðôi mắt chẳng còn nhìn rõ được, không nuốt được, phải ăn bằng đồ lỏng, khó khăn. Người con gái lớn đã ly dị, đấy là niềm đau đớn vô cùng đối với bà. Hai người con trai khác ở rất xa. Ông tâm sự với chàng là tâm trí bà chỉ nhớ tới các con. Bà nguyện cầu và lo âu cho phần rỗi của chúng. Ðời sống hôn nhân ngoài Giáo-Hội của người con gái đã ly dị làm bà khổ sở, buồn phiền.

“We need you.”

Ðã hơn mười năm nay bà chẳng có thể tới nhà thờ được. Ðó là một quê hương mà bà cứ nhắc tới hoài. Ông nói với chàng rằng chỉ còn Chúa là nguồn vui và an ủi nhất của cả hai người. Mỗi Chúa Nhật đầu tháng, nỗi háo hức của bà là được chịu Mình Thánh. Có một mình cha sở, lại phải lo cho nhà thương, thêm viện dưỡng lão, nên ngài chỉ đến thăm bà một tháng một lần. Khi biết được mùa hè này có một chủng sinh về giúp xứ, và bà có thể nhận Mình Thánh hàng tuần, ông nói, đấy là niềm ước ao của ông . Trên khuôn mặt già nua mừng rỡ, ông không hỏi tên chàng. Ông không cần biết chàng từ đâu đến, dù chàng khác màu da, không cùng ngôn ngữ. Ông chỉ ôm lấy tay chàng mà nói: We are happy to have you here. We need more priests. Ông không cần biết chàng thánh thiện hay tội lỗi. Ông không cần biết chàng tài năng hay vụng về. Trong niềm tin ấy, ông chỉ biết chàng là người mang Chúa cho ông. Ðiều ấy càng làm người thanh niên nghĩ ngợi hơn về lý tưởng của chàng.

Chàng ra về với tâm hồn bùi ngùi. Tôi là ai? Vì sao họ cần tôi? Ðời sống linh mục là gì? Vì sao bàn tay linh mục có thể chúc phúc bình an? Những câu hỏi ấy lại đưa chàng về một thế giới thần thánh, mà câu trả lời không hoàn toàn đến từ trời cao. Ði tìm câu trả lời là cuộc hội ngộ giữa đất và trời. Giữa yếu đuối và cao thượng. Giữa mênh mông và mảnh đất chật hẹp. Giữa từ bỏ và lên đường. Ðối diện câu hỏi là một khắc khoải, không thể giải quyết được tự lòng người. Nhưng con người có tự do và lựa chọn. Chàng không nói, nhưng dường như trong thâm sâu của trái tim, có lời kinh như một ánh sáng nhỏ đang cố ngoi lên:

Lạy Chúa nếu chẳng có con cộng tác thì công trình cứu chuộc của Chúa có bị thiệt thòi không? Con nghĩ là có. Chẳng phải vì công lệnh của con, nhưng vì nhiệm vụ mà Cha trao phó cho con, con đã không thi hành. “Làm sao họ tin nếu họ không biết về Ngài, Làm sao họ biết nếu không có ai rao giảng cho họ.” (Rom.10:14)

Nếu con không đến đây thì ai là người đem niềm vui cho hai ông bà? Cha có gởi gắm sứ mạng ấy ở nơi con không? Cũng trong chiều nay, còn biết bao tâm hồn khác cô đơn, đang đợi một bàn tay chúc bình an, đang chờ bước chân đem Tin Mừng đi tới. Họ sẽ chờ đến bao giờ nếu người mà Cha sai tới đã không muốn đi? Những giây đàng bằng vàng ròng của Salomon đã chẳng ru khúc yêu thương được cho dân của người. Những ly rượu nồng của David cũng chẳng cho dân ngài một giấc ngủ yên. Chính là những ngày rong ruổi trên con đường Galilee của đám mười hai tông đồ. Trong huyền nhiệm thân thể của Cha, thì khi con đem niềm vui cho tha nhân là con đem cho chính con. Nếu chiều nay mà con không bước tới thì căn nhà sẽ vắng lặng làm sao. Vì sao Cha đã gọi con? Ðôi tay con vụng về chẳng xây nổi giấc mơ của mình mà sao Cha lại cho con ôm cả vũ trụ? Trên bàn tay yếu đuối ấy, sao Cha lại cho con quyền năng trọng đại? Làm sao con hiểu thấu. Đấy chỉ là ân sủng mà thôi, Cha ơi. Chàng giã từ hai ông bà với tâm trạng vấn vương. Có đau thương của một tâm hồn yếu đuối. Nhưng cũng có ơn tha thứ của trời cao. Có nỗi chua cay của một niềm tin mong manh. Nhưng cũng có lời an ủi của một kẻ hiểu đam mê của xác thân chàng. Chàng thấy cõi lòng chứa chan. Chàng muốn dâng một lời cầu mà chẳng biết cầu cho ai, cầu như thế nào. Trời vẫn cao mênh mông, dường như mênh mông hơn nữa. Những vì sao vẫn lấp lánh. Chiếc hộp đựng Mình Thánh đang ở trong túi áo. Ðây có là cả bầu trời? Ðây có là cả biển rộng thứ tha và yêu thương? Tôi là ai mà dám đi song hành với Thượng đế của nhân loại? Chàng hỏi nhỏ cõi lòng, và trong lặng lẽ, chàng nghe từ con tim, có tiếng người đáp trả.

Chàng muốn đi thật xa với Người, muốn về một cõi đời bát ngát bình yên với Người. Muốn xóa đi những giấc mơ chỉ làm chàng thêm khổ đau. Nhưng chàng nghe thấy tiếng nói: Không, con không thuộc về trần gian nhưng Cha không đem con ra khỏi thế gian. Và người thanh niên hiểu là Ngài ban cho chàng đủ ánh sáng để đi, nhưng Ngài cũng để chàng đủ tối tăm cho niềm tin của chàng phải đặt trọn vào Ngài. Chàng bỗng lo âu về những ngày sắp tới, về những tiếng gọi của giầu sang và địa vị. Chàng muốn ngài đem chàng ra khỏi những yếu đuối của chàng để đi với Ngài về một cõi xa. Nhưng ngài lại nói: Ơn thánh của Cha thì đủ cho con.

Những gì người thanh niên hỏi thì Ngài trả lời. Những gì chàng thắc mắc, băn khoăn thì Ngài đáp trả. Không phải ở bầu trời cao mà là âm thầm trong chính hồn chàng. Như xương thịt chàng là Ngài lo âu cho chàng trước khi chàng biết lo âu cho mình. Ngài bảo chàng cứ đi, và chàng thấy mùa xuân về, bát ngát, mênh mang. Chàng thấy như một bông hoa Quỳnh, trắng nõn, đang nhè nhẹ nở nụ trong sương đêm. Chàng nghe như hoa cỏ đang hồi sinh, và trong tim chàng, có dòng suối mát vỗ về. Chàng cảm thấy trên đường chàng đi, có vắng vẻ nhưng không đơn côi. Chàng cũng cảm nghiệm người chàng yêu ở trong tim chàng chứ chàng khôg phải kiếm tìm. Chàng nhủ thầm, tôi nghèo khổ khi tôi tìm kiếm, nhưng khi tôi ở trong vũ trụ và vũ trụ ở trong tôi thì tôi còn gì nữa mà để tìm kiếm đâu. Rồi chàng đã đi lang thang hết con đường này sang đường khác. Ngài cũng đi với chàng.

Chàng cứ hỏi, và ngài cứ trả lời. Ngài bảo rằng linh mục nghĩa là Kitô, đấng được xức dầu và đóng đinh. Ý nghĩa của linh mục càng thâm sâu khi càng vất vả, gian nan. Ánh nến Phục Sinh càng sáng khi máu tử nạn càng hồng.

Ngài không bảo chàng rằng đường chàng đi sẽ phủ đầy hoa hồng, nhưng chàng có thể làm cho hoa hồng nở trên đường chàng đi.

* * *

Ðêm ấy, người thanh niên cứ lang thang khắp đường. Khi về đến phố thì xuất ciné cũng vừa tan. Chàng nhìn đám người, nguyện cầu và mong ước cho từng người được bình an. Giã từ rạp cinée, chàng đi về phía những quán bar đang sực khói thuốc và men bia, chàng nguyện cầu cho mọi người tìm được niềm vui chân thật. Những cô gái đang bước lẻ loi trên đường. Biết đâu, đêm nay có những tiếng khóc thầm lặng, có những nỗi cô đơn dầy đặc. Chàng nguyện cầu cho tình yêu đi về trên những mảnh hồn đơn côi ấy. Ðêm nay, trong một góc tối nào đó, đang có những toan tính âm mưu. Chàng xin Chúa ban ánh sáng phục sinh. Cũng có lẽ đêm nay, trong căn nhà nào đó, có tiếng khóc than, có những quầng mắt thâm sâu. Có những tâm hồn lạc lõng đang tìm lãng quên bằng men đời say đổ. Có những quãng đời đang không biết đi về đâu. Có những tan nát, chia ly. Có những đổ vỡ lặng lẽ mà vô cùng xót thương. Có những dòng nước mắt tuyệt vọng. Cứ thế, chàng bước đi trên phố và xin Ngài chúc lành cho thành phố đã về đêm.

"Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới."

Chàng đã kiệu Mình Thánh Chúa đi trên biết bao con đường. Chẳng ai biết cả. Chỉ riêng chàng. Ðã nhiều lần trong đời, chàng đi rước, nhưng chỉ đêm đó, một đêm kiệu Mình Thánh mà chàng gần Ngài nhất. Ở một góc công viên, người thanh niên vuốt mặt, nhìn trời cao, chàng thấy hồn chàng nhẹ nhàng như đang đi trong cõi mùa xuân. Trong cõi lòng, chàng thấy một bầu trời rộng và có một cánh chim đang bay lên cao, tự do, bát ngát. Chàng thấy những giải nắng hồng rực rỡ. Nghe như vũ trụ có gió xuân nhè nhẹ đi về. Êm đềm. Những cơn mưa buồn đã theo mây đen trôi dần về biển xa. Chàng muốn giơ tay bắt giữ những giây phút thiêng liêng. Một cành lá dường như đang nẩy màu xanh hy vọng. Nhưng chợt nhớ về quá khứ, trong quá khứ đã nhiều lúc chàng xa Ngài. Bởi đó, chàng băn khoăn về tương lai. Nào chàng có biết chắc được những ngày sắp tới. Nào chàng có biết chắc cánh chim kia sẽ tiếp tục bay cao, hay lại quay về, bỏ khoảng trời mênh mông. Nào chàng có biết chắc những cành cây hy vọng kia sẽ thêm xanh hay sẽ khô dần. Người thanh niên cúi mặt sợ hãi những đám mây đen. Vì bao lần trong quá khứ, mây bay đi nhưng mây lại bay về. Trời hồng sáng rồi mưa tuôn lại làm dập dềnh khóm hạnh phúc chưa kịp trổ bông. Chàng nhìn tương lai mà không trọn vui được hiện tại. Nhưng chàng nghe dường như có tiếng Ngài nói:

– Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới.

Chàng cũng nghe như Ngài nói nữa:

– Cha không chờ con thánh thiện rồi Cha mới thương con, nhưng chính vì tình thương của Cha mà Cha dìu con đi lên từ tội lỗi.

Khi về đến nhà xứ thì đã quá nửa đêm. Và hình như chàng vẫn nghe thấy âm vang từ rất xa, âm thầm mà mãnh liệt:

– Ðường con đi sẽ không phủ đầy hoa hồng. Nhưng con có thể làm cho hoa hồng nở trên đường con đi.

Trích “Tiếng gọi phía bên trong”

Được tạo bởi Blogger.