Rằng đời là huyễn mộng hư vô!
Vì hồn ngủ mê là linh hồn mất,
Và sự đời, trông vậy mà nào phải vậy đâu.
Đời người là thực thể nghiêm trang,
Mà nấm mồ đâu phải là đích đến.
“Là cát bụi, rồi trở về cát bụi”;
Lời trên không nói đến linh hồn.
Chẳng phải niềm vui, chẳng phải buồn đau
Là cứu cánh là con đường định mệnh;
Ta phải làm gì để mỗi ngày sau
Thấy mình tiến xa hơn hôm trước.
Con đường nghệ thuật còn dài,
Mà thời gian sao quá mong manh.
Còn trái tim ta, dù can đảm kiên cường,
Cũng chỉ là chiếc trống âm thầm
Gõ nhịp bước chân tiễn ta về huyệt lạnh.
Trên trận địa của thế gian này,
Trong doanh trại của cuộc đời này,
Đừng như loài cừu cho người dẫn dắt!
Ta hào hùng trong cuộc đấu tranh.
Đừng trông chờ Tương Lai,
Dù tương lai dường bao tươi sáng!
Dĩ Vãng chết rồi, chôn chặt đi thôi!
Phải làm gì trong Hiện Tiền sinh động,
Với tim trong ngực và Thượng đế trên cao.
Đời các vĩ nhân luôn luôn nhắc nhở
Ta có thể làm cuộc sống thăng hoa,
Và khi ra đi, đằng sau còn lại
Những dấu chân trên bãi cát thời gian.
Những dấu chân mà biết đâu có kẻ
Khi chèo thuyền qua biển đời trầm mặc
Bị dập vùi vô vọng giữa khơi,
Người anh em thấy dấu chân, phấn khởi
Vươn lên tiếp tục hành trình.
Ta đứng lên, đường đường ta sống,
Rất nồng nàn dù số phận ra sao,
Càng thành tựu, càng kiếm tìm theo đuổi,
Biết lao động và biết đợi chờ.
Tác giả: Henry Wadsworth Longfellow *
Trần Ngoc Cư dịch
Biết lao động và biết đợi chờ |
A Psalm of Life
Henry Wadsworth Longfellow (Born February 27, 1807, died March 24, 1882).
Tell me not, in mournful numbers,
Life is but an empty dream!-
For the soul is dead that slumbers,
And things are not what they seem.
Life is real! Life is earnest!
And the grave is not its goal;
Dust thou art, to dust returnest,
Was not spoken of the soul.
Not enjoyment, and not sorrow,
Is our destined end or way;
But to act, that each tomorrow
Find us farther than today.
Art is long, and Time is fleeting,
And our hearts, though stout and brave,
Still, like muffled drums, are beating
Funeral marches to the grave.
In the world’s broad field of battle,
In the bivouac of life,
Be not like dumb, driven cattle!
Be a hero in the strife!
Trust no Future, howe’er pleasant!
Let the dead Past bury its dead!
Act,-act in the living Present!
Heart within, and God o’erhead!
Lives of great men all remind us
We can make our lives sublime,
And, departing, leave behind us
Footprints on the sands of time.
Footprints, that perhaps another,
Sailing o’er life’s solemn main,
A forlorn and shipwrecked brother,
Seeing, and take heart again.
Let us then be up and doing,
With a heart for any fate;
Still achieving, still pursuing,
Learn to labor and to wait.
Nguồn: Vanchuongviet.org
Henry Wadsworth Longfellow |
Chuẩn bị cho công việc này, ông lên đường sang châu Âu, đến các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức để học tiếng và nghiên cứu về văn hoá, lịch sử của các nước này. Từ năm 1829 đến năm 1835, ông dạy ở Bowdoin College. Năm 1831 ông cưới vợ và xuất bản tập thơ Outre-Mer (Ở nước ngoài). Năm 1835, Đại học Harvard mời ông dạy các ngôn ngữ mới và ông lại lên đường sang châu Âu du lịch. Vợ ông mất trong thời kỳ này, ông trở về Mỹ năm 1836, dạy ở Đại học Harvard đến năm 1854. Tập thơ đầu tiên Voices of the Night (Giọng của đêm, 1839) có bài thơ A Psalm of Life làm cho Longfellow trở thành nhà thơ nổi tiếng trong tất cả mọi tầng lớp của xã hội. Tập thơ Ballads and Other Poems (Những bài ballad và những bài thơ khác, 1842) có bài thơ Excelsior cũng là một bài thơ rất nổi tiếng. Năm 1843 ông cưới vợ lần thứ hai và tiếp tục sáng tác nhiều. Năm 1861 vợ thứ hai của ông lại qua đời, Longfellow rất buồn và đau khổ nhưng vẫn sáng tác đều. Ông bỏ ra nhiều năm dể dịch trọn vẹn bộ La Divina Commedia (Thần khúc) của Dante Alighieri ra tiếng Anh, được đánh giá là bản dịch tốt nhất trong số rất nhiều bản dịch ra tiếng Anh. Những năm cuối đời ông bị bệnh khớp nhưng vẫn luôn thoải mái tâm hồn và vẫn làm việc nhiều. Ông mất ở Cambridge, Massachusetts năm 1882.
Henry Wadsworth Longfellow là nhà thơ rất nổi tiếng không chỉ ở Mỹ mà cả ở nước ngoài. Ở Việt Nam mới chỉ có một số bài thơ của Longfellow được dịch ra tiếng Việt. Longfellow đã nghỉ hưu thôi không giảng dạy vào năm 1854 để tập trung vào các tác phẩm của mình. Ông dành thời gian còn lại của cuộc sống của mình ở vùng Cambridge, Massachusetts. Về gia đình, người vợ đầu tiên của ông là Mary Potter, đã qua đời vào năm 1835 sau khi sẩy thai. Người vợ thứ hai, Frances Appleton, đã qua đời vào năm 1861 vì một tai nạn hỏa hoạn. Sau khi bà qua đời, Longfellow đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc sáng tác của ông. Longfellow qua đời vào năm 1882.
Nhà thơ Longfellow chủ yếu là viết những bài thơ trữ tình được biết đến với sự phổ nhạc và phong cách thường được trình bày là đề tài, câu chuyện về thần thoại và truyền thuyết. Ông trở thành nhà thơ nổi tiếng nhất của Mỹ và ở nước ngoài. Tuy nhiên ông cũng bị phê bình vì phong cách hơi giống phong cách thơ văn ở châu Âu và hơi khó hiểu đối với quần chúng bình dân.
Theo Bách Khoa Toàn Thư Mở