Căn phòng Hàn Mạc Tử ở trước khi qua đời |
Từ Chơi Giữa Mùa Trăng đến câu chuyện Bà Như Lễ, hay là ước mơ trong cõi thực và thực tại trong cõi mơ
Tiểu luận văn chương và thần học
Một trong những sự lạ lùng nhất chưa biết đến về Hàn Mạc Tử (1912-1940) từ lúc thi sĩ thiên tài từ biệt chúng ta đi vào vĩnh cửu, ngày 11 tháng 11 năm 1940, sau một cuộc đời ngắn ngủi và vô cùng đau khổ, ấy là giai thoại cảm động xảy ra sau lúc thi sĩ tắt thở mười chín giờ mười lăm phút. Thế nhưng giai thoại này phải chờ ba mươi ba năm trước khi được tiết lộ cho công chúng, qua một tiểu luận Cao học văn chương mà ông Trần Đình Niên đã trình ở Đại học Văn khoa Sài Gòn năm 1973.
Về hình thức, người ta tự hỏi phải chăng đây là một giấc mơ của bà Như Lễ - chị Lễ mà trong thời niên thiếu được mô tả đã cùng đi chơi với Hàn Mạc Tử trong bài thơ ẩn dụ Chơi giữa mùa trăng[1] – hay đây là sự hiện ra của chính linh hồn Hàn Mạc Tử khi được giải thoát khỏi thân xác vật chất với chị Lễ ấy?
Vì bà Như Lễ kể rằng “trong khi bà đang ngủ [ở nhà bà] tại Quy Nhơn, bà thấy Hàn Mạc Tử ôm một bọc áo quần v.v...”, từ đó người ta kết luận là một giấc mơ. Nhưng có một sự việc khác trong phần tiếp theo của câu chuyện. “Bà bạn nằm ở giường bên cạnh, sực thức dậy, bảo bà Như Lễ: Cô ơi! Có ai vô nơi kìa, để cái gì trên giường kìa!”. Lời chứng này khiến chúng ta phải tin vào việc người quá cố hiện ra hơn là một giấc mơ của bà chị, vì nói chung việc hai hay nhiều người cùng thấy một sự hiện ra thì dễ chấp nhận hơn việc hai hay nhiều người có cùng một giấc mơ. Nhân đây cũng nói thêm rằng tiếng Việt có một từ ngữ dung hòa hai khái niệm ấy là “báo mộng”.
Khỏi cần phải yêu cầu bà Như Lễ khẳng định đã nhìn thấy Hàn Mạc Tử trong thực tế hay trong giấc mộng. Tân Ước đã thuật lại Chúa sai Thiên sứ hiện ra để giải thoát thánh Phêrô khỏi ngục tối một cách kỳ diệu và dẫn thánh nhân theo Thiên sứ ra ngoài. Nhưng lúc đó vị Tông đồ của Đức Giêsu “không biết việc Thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng mình thấy một thị kiến”, sách Công vụ nói (ch. 12, 5-9). Phêrô chỉ biết sự thật khi đã đi đến cuối con phố và Thiên sứ rời bỏ ông, lúc đó ông mới hoàn hồn.
Thật vậy, Kinh thánh thuật lại nhiều lần hiện ra hay báo mộng, chúng không phải đều từ Thiên Chúa hay các Thiên sứ theo lệnh của Thiên Chúa, nhưng cũng từ những người đã sống ở trần gian như ngôn sứ Samuen đã hiện ra với vua Saolơ (1 Sm 28, 12-19), tổ phụ Môsê và ngôn sứ Êlia cùng hiện ra với Đức Giêsu Chúa chúng ta để đàm đạo với Ngài trên núi Tabor (Mt 17, 3). Và theo Phúc Âm thánh Mátthêu, những sự kiện sau đây trong số những sự kiện khác xảy ra vào lúc Đức Giêsu Chúa chúng ta chết trên thánh giá để chuộc tội cho nhân loại: “Mồ mả bật tung và xác của nhiều vị thánh được an nghỉ đã chỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ vào thành thánh và hiện ra với nhiều người” (Mt 27, 52-53).
Theo định nghĩa của thần học, “hiện ra” là một biểu lộ của Thiên Chúa, của các Thiên Sứ hay của những người chết (thánh thiện hay không) tỏ bày dưới một hình thức tác động đến các giác quan của con người[2].
Ngày nay nhiều tác phẩm nghiêm túc cũng thuật lại các trường hợp những người chết hiện ra dưới nhiều hình thức. Về phương diện này, tiêu biểu là nhật ký của nữ tu Marie de la Croix (chết ngày 15 tháng 5 năm 1917) dưới nhan đề Manuscrit du Purgatoire (Thủ bản Luyện ngục).
Ngày qua ngày tác giả đã ghi lại những lần trò chuyện với linh hồn của một nữ tu cùng dòng tên Marie Gabrielle (chết ngày 22 tháng 2, 1871). Nữ tu này lúc sinh thời, đã có một đời sống tôn giáo rất thông thường, có nhiều khuyết điểm và gương xấu, tự bản tính đã chống lại nữ tu Marie de la Croix trong con đường nên thánh. Nữ tu quá cố còn ở trong Luyện ngục để được thanh luyện đã được Thiên Chúa cho phép hiện ra không phải dưới hình thức thể chất, nhưng chỉ bởi âm thanh và một vài tiếng động báo sự hiện diện của chị để mời gọi và giúp đỡ nữ tu còn sống sửa mình và thánh hóa bản thân, để nhờ đó nữ tu quá cố được giải thoát. Trong sáu năm liên tiếp (1884-1890), xơ Marie de la Croix ghi lại trong nhật ký ngoài những lời khuyên bảo và dặn dò mà linh hồn ấy đã mang lại như một linh hướng với đầy sự khôn ngoan ... còn có nhiều tiết lộ về Luyện ngục và những cứu cánh sau cùng khác của con người (cái chết, phán xét, thiên đàng, địa ngục). Trong thời gian đó chị sửa mình và thánh hóa thật sự làm cho linh hồn của nữ tu quá cố sau cùng đến – luôn luôn dưới hình thức không có thể chất – cám ơn và nói lời từ biệt để lên Thiên Đàng[3].
Những kiểu mẫu khác là hai lần hiện ra dưới hình người sáng láng và điểm trang lộng lẫy mà tu viện trưởng Gilbert Combe, cha xứ của giáo xứ Dion (Callier, Pháp): đó là sự hiện ra của cha mẹ của ngài, sau thời gian thanh luyện (mẹ của ngài chịu ba tuần và cha chịu mười lăm tháng) và trước khi vào Thiên đàng, đã được phép lần lượt đến cám ơn vị nữ ân nhân tại thế đã thực hiện những sự hy sinh cao cả khi sốt sắng cầu nguyện để họ được giải thoát. Vị nữ ân nhân của họ chính là Nữ Tu chân phước Marie de la Croix (cùng tên với nữ tu viết Manuscrit du Purgatoire) nổi tiếng hơn dưới cái tên thời thơ ấu Mélanie, cô bé chăn cừu ở La Salette, người cùng với Maximin nhỏ tuổi hơn cô đã nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra năm 1846 và nữ tu này vào giai đoạn của đời sống ẩn dật (1899-1904), đã sống như một nữ tu đơn độc và kín đáo trong giáo xứ do tu viện trưởng Combe phụ trách[4].
Ở Việt Nam, trường hợp của nữ tu Maria Catarina Nguyễn Thị Diện, chị được đặc sủng có những liên lạc khả giác với mẹ và người anh quá cố của chị liên tiếp đến báo cho chị biết họ đã được giải thoát khỏi Luyện ngục. Trường hợp của chị đã được một giám mục người Pháp, giám mục giáo phận cũng là cha linh hướng của chị, Đức Cha Louis de Cooman và những tài liệu đầu tay của ngài[5] đã giúp chúng tôi rất nhiều khi viết tác phẩm về chị nữ tu thần bí hiếm có ấy của Việt Nam[6].
Như thế lời kể lại của bà Như Lễ về thị kiến Hàn Mạc Tử vốn không xa lạ với Kinh thánh, thần học và kinh nghiệm đời sống. Trong trường hợp này, nên lưu ý một chi tiết: bà Như Lễ đã có thị kiến ấy trước khi chồng bà trở về nhà báo cho bà biết cái chết của Hàn Mạc Tử, đã xảy ra mười chín giờ một khắc trước đó mà bà không hề biết. Nhân tố này có tính chất vô hiệu hóa những hoài nghi có thể có cho rằng lời kể lại của bà Như Lễ bị hoen ố bởi tính chủ quan, của ảo giác, của tự kỷ ám thị v.v... vì người ta có thể giả định như thế trong trường hợp thị kiến xảy ra sau khi bà đã biết cái chết của em trai bà.
Một nghiên cứu sâu hơn lời kể lại ấy mời chúng ta tìm hiểu kỹ ý nghĩa của lời Hàn Mạc Tử đã nói: “Chị ơi, em lành rồi này!”
Phải chăng sự lành bệnh của thể xác? Không. Thân xác của thi sĩ sẽ được mai táng cho đến lúc hư nát hoàn toàn, còn xấu xí và gớm ghiếc hơn cả bệnh phong hủi đã đục khoét ông khi còn sống – trong khi chờ đợi sự sống lại, bởi ân sủng của Thiên Chúa phục hồi thân xác ấy và kết hiệp nó lại với linh hồn ông trong thời sau rốt cho cuộc phán xét vũ trụ và số phận vĩnh cửu.
Trong lúc ấy, những lời “Em lành rồi này!” của Hàn Mạc Tử chỉ có thể được hiểu đối với linh hồn: Kết thúc cuộc lưu đày trần thế với mọi biến cố thăng trầm, nhọc nhằn, bệnh tật, đau khổ, buồn sầu ... Linh hồn trung tín với ân sủng của Thiên Chúa được giải thoát, để đến chiêm ngưỡng Ngài trong Vương quốc ánh sáng của Ngài như Đức tin Hàn Mạc Tử đã xác tín và lòng Cậy trông của ông đã lôi kéo ông khi không ngừng cảm hứng cho ông những bài ca bất tận.
Thật vậy, những linh hồn hoàn hảo được tình yêu Thiên Chúa thiêu đốt, thanh luyện ngày càng nhiều trong lò lửa của tình yêu và của sự đau khổ – luyện ngục trần gian này như người ta thường nói – và nhờ đó xứng đáng được đón nhận ngay lập tức trong đôi tay của Chúa Cha hằng hữu khi ra khỏi thế giới này, những linh hồn vàng ròng ấy chỉ là một số rất nhỏ! Hầu như mọi người chết còn phải đi qua thử thách của luyện ngục trong một thời gian không xác định, có thể được giới hạn trong vài giờ, vài ngày, vài tháng hoặc vài năm hoặc kéo dài đến hàng chục năm, thậm chí nhiều thế kỷ... Nếu tin theo cuốn Manuscrit du Purgatoire đã dẫn ở trên và những tiết lộ khác của các nhà thần bí, thời gian thanh luyện sau cùng này, trong phần lớn các trường hợp là từ ba mươi đến bốn mươi năm.
Vậy, số phận nào được dành cho linh hồn của thi sĩ thân yêu và sùng đạo của chúng ta? Chúng ta sẽ tránh mọi suy đoán tự phụ. Chỉ có Tông tòa Rôma trong các vụ án phong chân phước và phong thánh, mới đòi hỏi các thủ tục tìm hiểu và điều tra mà người ta không thể thực hiện kỹ lưỡng và thấu đáo hơn. Những thủ tục ấy kéo dài hàng chục có khi hàng trăm năm – ngoài ra tòa phong thánh còn đòi hỏi tối thiểu phải có ba phép lạ được xác nhận – để công nhận sự thánh thiện của linh hồn được đề nghị. Chỉ có Quyền bính không sai lầm mới có thể công bố một linh hồn nào đó được phong chân phước hay phong thánh, điều này có nghĩa là linh hồn ấy đã mang lại những chứng cứ rõ ràng về sự cứu chuộc của họ và họ được đón nhận vào trong vinh quang các thánh và xứng đáng được nêu ra làm gương cho những người còn bước đi trong cuộc lữ hành trần thế.
Trong trường hợp của Hàn Mạc Tử, ý định của chúng tôi không ngoài việc bàn luận về những hiện tượng bên ngoài và một giả thuyết của việc suy lý. Vả lại giả thuyết mà các hiện tượng bên ngoài đã được xem xét phải gợi ra là đối với người Kitô hữu cao cả ấy, tất cả là dấu chỉ của sự cứu độ và vinh quang. Các bạn hãy lưu ý rằng khi hiện ra với chị, Hàn Mạc Tử không hề xin sự trợ giúp của kinh nguyện và những hy sinh đền tội, như các linh hồn mà Thiên Chúa cho phép đặc biệt hiện về từ Luyện ngục thường làm. Vả lại thi sĩ “mặc toàn trắng” và “đầu tỏa hào quang màu trắng” thì rõ ràng đó là dấu chỉ của sự thanh khiết, sự giải thoát, vinh quang... Thật vậy, con người trần tục không thể chịu được sự huy hoàng nguyên vẹn của ánh sáng một linh hồn ở tình trạng vinh quang trong Thiên Chúa. Điều này làm cho trong mỗi trường hợp đặc biệt sự tỏa sáng ấy được định mức theo khả năng tri giác của người tiếp nhận thị kiến, tùy theo những sự an bài của Thiên Chúa, Đấng đo lường mọi sự.
Chúng ta hãy trở lại một lần nữa từ khóa ấy: “Chị ơi! Em lành rồi!” Lời nói này đơn giản và khiêm nhường biết bao, nó hoàn toàn ăn khớp với khung cảnh hiện ra: vẻ mặt, áo quần, hết thảy ở đây đều đơn sơ, khiêm nhường, từ tốn để thể hiện đúng đắn tính cách của con người Hàn Mạc Tử, cả khi ở ngưỡng cửa vinh quang lúc bấy giờ.
Sau cùng, điều gì được gợi ra về khoảng thời gian từ lúc Hàn Mạc Tử tắt hơi ở trại phong (năm giờ bốn mươi lăm ngày 11 tháng 11, 1940) đến lúc thi sĩ khải hoàn hiện ra cho chị mình? (một giờ sáng ngày 12 tháng 11, 1940).
Tuy vẫn là giả thuyết nhưng cũng có thể rất thật, đó là thời gian vật chất của sự thanh luyện sau cùng trước cuộc Hội ngộ khôn tả với Thiên Chúa của sự Hoàn Thiện. Do đó, “em lành rồi” là lời loan báo không chỉ của việc thi sĩ ra khỏi chốn lưu đày trần thế như chúng ta đã nói mà còn là lời loan báo thi sĩ đã được giải thoát khỏi Luyện ngục. Tóm lại, đó là tiếng kêu vinh quang để về Thiên Đàng, trong một ngôn ngữ kín đáo phù hợp với một lòng khiêm nhường như thế.
Và lúc đó sự thần hóa đã khởi đầu ...
Điều gì làm kinh ngạc và cũng mang lại hiệu quả khiến linh hồn Hàn Mạc Tử đã mau chóng bay lên khỏi những ngọn lửa của luyện ngục?
Được thanh tẩy khỏi tội nguyên tổ, được thêm sức mạnh với nước rửa tội ngay từ lúc mới sinh rồi nhận được sự giáo dục tốt nhất trong gia đình cũng như từ các sư huynh các trường học Công giáo, Hàn Mạc Tử đã sống đức Tin và nâng nó lên đến trình độ anh hùng. Hơn thế nữa ông đã làm chứng cho đức Tin qua những khổ đau bất tận, theo cách của vị Tử Đạo thách thức mọi sự bách hại và chấp nhận đổ máu mình ra vì đức Tin. Thật vậy còn hình ảnh nào gợi lại rõ ràng cái chết trên vỉ sắt nung đỏ của một thánh Laurent (tử đạo năm 258) như cái chết của Hàn Mạc Tử có thể nói cũng bị nung trên vỉ là cái giường của người phong hủi qua những năm tháng nhưng vẫn ca khen những điều kỳ diệu của Thiên Chúa?
Về vấn đề khổ chế, khi một nhân đức của một người đã đạt đến mức độ anh hùng, nó đương nhiên kéo theo các nhân đức khác đi lên. Như thế với đức Tin anh hùng, Hàn Mạc Tử đã có được đức Cậy của một ông Gióp mà Kinh thánh đã chép lại lời này của ông: “Ngài [Thiên Chúa] có thể giết tôi: tôi không còn hy vọng nào khác phải biện hộ cách sống tôi trước nhan Ngài” (G 13, 15).
Về phần đức Mến làm cho người tín hữu thành người con yêu mến Chúa Cha và người anh em yêu thương hết thảy mọi người, Hàn Mạc Tử cũng đã có nhiều đức Mến và biểu lộ thành “người Kitô hữu tốt lành”, như người ta sẽ nói.
Cùng với ba nhân đức đối thần ấy, các nhân đức luân lý cũng là gương mẫu nơi vị anh hùng của chúng ta. “Anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Đức khiêm nhường và hiền lành, hai nhân đức rất thân thiết với Ngài mà Ngài đã giáo huấn rõ ràng, Hàn Mạc Tử xem ra đã thể hiện chúng. Và vì khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức luân lý khác, làm thế nào một linh hồn đã thấm nhuần nhân đức ấy lại không được những viên kim cương khác trang điểm? Ví dụ như đức khó nghèo, người bạn không thể tách rời của đức khiêm nhường, một trong ba lời khấn của bậc tu trì. Hẳn Hàn Mạc Tử có thể đòi cho mình tước hiệu “người nghèo của những người nghèo”, theo gương của thánh bổn mạng ngày thi sĩ nhận phép thêm sức, thánh Phanxicô Átsidi. Ông cũng có thể lấy lại cho mình lời Đức Giêsu đã nói về chính Ngài: “Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58). Thế nhưng, ông ca tụng, ngợi khen suốt ngày, trong đời sống khó nghèo cùng cực như một nhân đức của Tin Mừng.
Phải nói gì về sự thanh khiết của linh hồn và của thân xác? Câu hỏi này có lẽ bị bóng đen che phủ đối với một số người, chúng tôi chừa lại để sau sẽ làm sáng tỏ.
Còn đức nhẫn nại, lòng can đảm, kiên trì và sùng tín ... ai sẽ chống lại Hàn Mạc Tử về những nhân đức ấy? Hay đúng hơn ai không thán phục tất cả các phẩm chất ấy của người anh hùng trẻ tuổi của chúng ta?
Trình bày những luận cứ khẳng định rút ra từ cuộc đời và tác phẩm của Hàn Mạc Tử là điều không khó. Tuy nhiên vì khuôn khổ hạn chế của tiểu luận này, chúng tôi phải bằng lòng với một vài chỉ dẫn và chứng cứ có sức thuyết phục nhất, và dành quyền tự do khai thác lãnh vực này cho người nào muốn có vinh dự vẽ ra một bức tranh hoàn hảo và đầy đủ về linh hồn Hàn Mạc Tử với những hành trình khổ chế và đi lên thần bí của ông còn hiếm thấy nơi các tín hữu giáo dân.
Trước tiên là sự đánh giá tự phát của một nữ tu có thẩm quyền biết rõ điều mình nói: Mẹ Marie de Saint Venant, của Dòng Phanxicô Thừa Sai Đức Mẹ, phó giám đốc trại phong Qui Hòa, mẹ cùng các nữ tu khác đã hết lòng chăm sóc cho thi sĩ phong hủi: “Ông ấy thật bé nhỏ, rất mực lễ phép và sống vẹn toàn đạo Kitô”, mẹ đã thổ lộ như thế với nhà văn Trần Thanh Mại mà mẹ tiếp chuyện khi ông Mại đến thăm mộ thi sĩ vừa qua đời, chính xác là vào mùa thu 1941[7].
Chỉ một lời đã vẽ ra toàn bộ chân dung tinh thần và tâm linh của Hàn Mạc Tử! Đã hẳn Hàn Mạc Tử vóc người nhỏ bé, nhưng điều đó không phải là không tính đến trình độ cao hơn của câu nói ấy. “Bé nhỏ” ở đây chính là có “nhân đức nhỏ bé”, đi theo “con đường nhỏ của tuổi thơ ấu thiêng liêng” là học thuyết tinh túy của Tin Mừng – “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em thì sẽ không vào được” (Mc 10, 15; Lc 18, 17) – và khi tuyên xưng học thuyết ấy, một nữ tu Cát Minh khiêm nhường thành Lisieux đã đạt đến vinh quang trong thời đại chúng ta, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu (1873-1897). “Lễ phép” chắc hẳn đã bao hàm trong nội tâm của thi sĩ một sự khiêm nhường chân thật cùng với sự tế nhị của tâm hồn và lòng nhân hậu của trái tim... Sau cùng, “một Kitô hữu tốt” chính là giữ mọi giới răn của Thiên Chúa, sửa đổi đời sống mình theo đời sống của Đức Giêsu, thực hành Hiến chương Nước Trời mà Ngài đã ban phát trong Bài giảng trên Núi, một bài giảng tuyệt hảo đã tạo nên biết bao vị thánh, cả những người không phải là Kitô hữu như Mahatma Gandhi. “Thật bé nhỏ, rất mực lễ phép, và sống vẹn toàn đạo Kitô”: tất cả đều ở thể trổi vượt của tính từ (superlatif). Vậy đó chính là sự hoàn thiện, sự thánh thiện của người giáo dân. Mẹ phó giám đốc dường như muốn nói tâm hồn cao thượng của Hàn Mạc Tử ở trình độ đó.
Về phần ông Nguyễn Văn Xê, một bệnh nhân được điều trị trong trại phong Qui Hòa và với tư cách một phụ y tá, người bạn trung tín của Hàn Mạc Tử, cũng đã làm chứng về sự khiêm nhường tinh tế và sự quên mình hoàn toàn của Hàn Mạc Tử. Suốt nhiều tháng tương giao thân thiết[8], không có gì được tiết lộ về hào quang văn chương của thiên tài Hàn Mạc Tử. Người bạn ấy cũng không biết rằng người bệnh được giao cho ông săn sóc là một thi sĩ. Ông cũng không ngờ ông có trong tay mình một tuyển tập thơ tôn giáo mà chính Hàn Mạc Tử đã tặng ông ba ngày trước khi qua đời. Tập sách nhỏ ấy không biết được đánh máy từ lúc nào mà trang đầu tiên đến lúc đó còn để trắng, bấy giờ mới được viết bằng bút chì nhan đề Thơ Cầu Nguyện và câu để tặng anh Xê cùng với chữ ký viết rõ François Trí[9]. Đó là vinh dự sau cùng của thi sĩ dành cho bạn ông Nguyễn Văn Xê, từ ngày 30 tháng mười 1940 khi thi sĩ được đưa vào phòng chờ chết vì bị bệnh lị rất nặng.
Hàn Mạc Tử còn hủy mình ra không đến mức giấu kín việc ông biết rành tiếng Pháp – và do đó giữ vai trò làm một người dốt nát hay gần như thế, trong thời kỳ chế độ bảo hộ Pháp. Trong việc liên hệ với các mẹ và các nữ tu nói tiếng Pháp thì chính người bạn đồng bệnh của thi sĩ đã phải đóng vai trò thông ngôn! Sau cùng ông Xê đã tìm thấy trên thi hài của thi sĩ tờ giấy nhàu nát với tác phẩm bất hủ của Hàn Mạc Tử viết bằng tiếng Pháp đề tặng cho các mẹ và các nữ tu. Đó là bài thơ văn xuôi nhan đề La Pureté de l’Âme. Ông Xê đã trao tận tay cho Mẹ Bề Trên, Mẹ Résurrection, ông hết sức kinh ngạc như Mẹ và trước mặt ông Mẹ đã kêu lên:
– “Giỏi quá! Uổng quá! Một con người tài năng, Xê ạ![10]”
Còn một điểm này chứng tỏ Mẹ Bề Trên chú ý đến bài thơ chắc chắn là của Hàn Mạc Tử như thế nào:
– “Nhưng Mẹ xin phép Trí đổi nénuphar (hoa súng) thay cho lotus (hoa sen) vì cuộc đời tu sĩ của chúng tôi ở đây chính là những hoa súng lên xuống như con nước và bập bềnh trôi nổi như mọi vật trong hồ, chứ không dám tự hào như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”[11].
Một sự ganh đua của lòng khiêm nhường thật cảm động giữa những linh hồn ưu tuyển trong nếp sống tu trì và một linh hồn ưu tuyển của hàng giáo dân!
Chúng ta hãy trở lại chứng từ sau đây, nó xua tan mọi nghi ngờ về cái gọi là một đời sống tình cảm quá nông nổi – để không còn nói như thế nữa – và người thi sĩ trẻ tuổi của chúng ta. Trái lại chứng từ ấy đã trả lại cho ông mọi hào quang của sự ngây thơ ban đầu và của sự thanh sạch anh hùng. Chính nhà văn Hoàng Trọng Miên, người bạn thân của thi sĩ, đã kể lại giai thoại này:
“Ngoài chuyện thơ văn ra, Tử không biết gì khác nữa. Sống chung với các bạn, đang độ trai trẻ, hăng say, lại ở trong không khí phóng túng của văn nghệ trẻ, nhưng Tử theo một nếp sống thật hiền lành, yên dịu, ngoan ngoãn của một thư sinh chăm chỉ sách đèn.
“Đời sống xa hoa, ăn chơi đặc biệt của xã hội Sài Gòn trước chiến tranh thứ hai, cũng như những thú đam mê về nhan sắc, phù dung, rượu ... phổ biến trong giới cầm bút thời đó, không hề ảnh hưởng gì đến Hàn Mạc Tử. Tử sống nhút nhát, e thẹn đến độ mỗi khi các bạn trai nói chuyện dính líu đàn bà, con gái là Tử đỏ mặt lên và lặng lẽ tránh đi.
“... Tính nết hay thẹn thùng của Tử làm cho Việt Hồ càng trêu già. Một lần Việt Hồ bàn với Thúc Tề tổ chức đưa Tử vào lòng đàn bà để coi hắn ra sao?. Tử không dè các bạn tinh nghịch muốn phá mình nên theo Việt Hồ và Thúc Tề đến Xóm đặc biệt.
“Khuya lại tôi thấy Tử về im lặng, không nghe ngâm nga như thường ngày nữa, còn Việt Hồ và Thúc Tề thì nhìn nhau khúc khích. Sáng hôm sau, Tử nằm dài trên chiếu trải sàn gác, nói giọng mệt nhọc nhờ tôi đến tòa soạn báo Sài Gòn [của ông bà Bút Trà] nhắn giùm là anh đau không đi làm được.
“Hỏi ra mới biết là đêm qua lúc bị gạt đưa vào tay đệ tử thần Bạch Mi, Tử phải hết sức vùng vẫy mới thoát được vòng vây của các nàng. Tử hú vía về nhà, xúc động đến đỗi phát đau, và mỗi lần nghe các bạn cười nhắc lại việc Tử bị các nàng kéo tay lột áo ... anh cười, nhắm đôi mắt nhỏ một mí lại mà la:
– Đồ quỷ! Thiệt mấy đứa bay là quỷ sứ!”[12]
Nhà cũ của Hàn Mạc Tử tại Quy Nhơn, ngôi nhà số 20 đường Khải Định thuở trước, nay mang số 67 đường Lê Lợi. Ảnh: Phanxipăng |
Câu chuyện này – phần nào đó thật khác thường – xảy ra vào cuối năm 1935 hoặc đầu năm 1936 – chưa đầy bốn năm trước cái chết của Hàn Mạc Tử, bốn năm đau đớn ghê gớm chỉ càng củng cố sự thanh khiết nơi linh hồn và thân xác của vị anh hùng của chúng ta.
Đã hẳn thi sĩ có những tình yêu lớn – tất cả đều là tình lý tưởng – những người yêu mà thi sĩ gắn bó vẫn còn sống và sẵn sàng phủ nhận điều mà văn chương đã tưởng tượng thêu dệt, từ mấy thập kỷ nay, về những nữ lưu mà thi sĩ đã làm cho trở thành bất tử trong những bài thơ tình yêu bất hủ, đó là:
– Hoàng Thị Kim Cúc, cô láng giềng trên con phố Khải Định ở Quy Nhơn, ông đã yêu nàng trong bước đầu của nghề văn bằng một tình yêu sâu xa và thầm kín – do đó không kết quả – và nàng đã có một trực giác về tình yêu ấy của ông nhưng không vì thế nàng từ bỏ sự giữ gìn ý tứ của một thiếu nữ quý phái mẫu mực gốc Huế.
– Mộng Cầm, tên thật là Lê Thị Nghê, nữ thi sĩ đã có lúc gởi thơ cho các nhật báo ở Sài Gòn mà ông đã cộng tác, nàng đã chấp thuận lời cầu hôn của ông như sự thành tựu của những mối đồng cảm về văn học, tuy nhiên thi sĩ đã trả lại tự do cho nàng với sự can đảm và sáng suốt nhưng không phải là không có những nỗi đau khôn tả, ngay khi ông có những triệu chứng của bệnh cùi.
– Mai Đình, tên thật là Lê Thị Mai, nữ sĩ tài năng và cao thượng, mà thi sĩ đã đánh giá cao lòng trắc ẩn, lòng thương cảm này đã mau chóng chuyển đổi thành tình yêu mà nàng đã quảng đại dành cho thi sĩ ngay từ lúc ban đầu, vì căn bệnh hiểm nghèo của ông trước khi ông được nàng đồng thuận và cùng nàng thăng hoa vào sự hiệp thông tinh thần không phải trong “tuần trăng mật” theo nghĩa tầm thường, mà trong viễn cảnh say sưa ở nơi thoát tục.
– Thương Thương, cháu gái của bạn ông Trần Thanh Địch, được ông này giới thiệu cho Hàn Mạc Tử như một người ái mộ thi sĩ, mà tên gọi có âm thanh ngân vang và những bức thư nồng nàn được nàng viết ra theo lệnh của Trần Thanh Địch đã gợi lên cảm hứng cho những tác phẩm đáng chú ý trong số đó có một vở kịch thơ mà ông cố tình bỏ lửng ngay khi biết được đó chỉ là sự tưởng tượng do người bạn quá tốt của ông dàn dựng, như dấu chỉ của sự từ bỏ điều thú vị của những hư cấu trong văn chương.[13]
Đó là chưa nói đến những đóa hoa biết nói khác là nguồn gốc những mơ mộng khác của ông vốn thường gặp ở mọi nhà thơ. Dù có bóng tối nào bay lượn trên mọi điều ấy, chỉ chứng từ trên kia đủ để xóa tan tất cả: cuộc chiến đấu vinh quang của một ngày tiết lộ về cả một đời. Vậy cho đến lúc chết, chàng thanh niên ấy vẫn còn khiết tịnh như các trinh nữ đã được thánh hiến mà chàng sẽ đã từng ca ngợi. “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8).
Những nàng thơ trong đời Hàn thi sĩ |
Với tất cả những sự bảo đảm đạo đức ấy, còn có thêm một dấu chỉ rất rõ ràng trên trán của Hàn Mạc Tử: lòng sùng kính Đức Mẹ của ông. Không chỉ là một đứa con hiếu thảo của Mẹ, ông còn tỏ ra là một tông đồ nhiệt thành và một thiên thần thi nhân của Mẹ có lòng thương xót. Không gì bằng kiệt tác Ave Maria[14] say sưa tình yêu và hy vọng, và bởi âm điệu du dương lôi cuốn mọi tâm hồn hướng về Mẹ thiên quốc, và bởi ngôn ngữ như thêu hoa, dệt gấm nó sánh được với nhạc khúc của các Thiên Thần ... Vâng, không gì bằng hành động hiếu thảo cao cả ấy, kiệt tác ấy của lòng sùng kính Đức Mẹ đủ để mở rộng cho ông Cửa Thiên Đàng – Toàn thể Giáo hội đã đồng thanh dùng diễn ngữ ấy để chỉ về Đức Trinh Nữ Maria, cho ta thấy sự trung gian của Mẹ mạnh mẽ dường nào: Porta Caeli!
Bài thơ ấy như một lời đối đáp đầy ấn tượng cho bài thơ La Vierge à Midi của Paul Claudel. Sáng tạo của Hàn Mạc Tử sẽ là một sự thăng tiến của văn chương Việt Nam như bản nhạc Ave Maria của Schubert đối với âm nhạc, hay bức tượng Pièta đối với điêu khắc. Trong thực tế, bài thơ ấy đã khơi dậy nhiệt tình các tâm hồn, lau khô những dòng lệ, xức thuốc thơm vào những vết thương, đồng thời mở ra những đỉnh cao chiêm niệm, mang lại những từ ngữ thần diệu cho các nhà thuyết giảng, và một đề tài hàng đầu cho các nhà soạn nhạc[15].
Liên kết với kiệt tác ấy trong đời Hàn Mạc Tử là một ý tưởng nhỏ mà thi sĩ đã thổ lộ từ đáy sâu của tâm hồn ông, luôn luôn hướng về Mẹ Maria, như một khúc nhạc thầm – ông sẽ nói lại là “nhạc thơm” – kéo dài suốt thời gian ông bị bệnh trước khi tan biến vào hòa âm của các Thiên Thần ngày Hội Ngộ.
Ý tưởng đó là: chiều ngày 30 tháng 10 năm 1940, khi ra khỏi nhà nguyện của trại phong sau giờ đọc kinh chung, nghĩa là trước buổi tối ông bị cách ly và chuyển vào phòng dành cho những người sắp chết như đã nói ở trên, Hàn Mạc Tử kéo ông Xê ra một nơi và nói:
– “Từ ngày tôi bị bệnh phong, tôi đã mong ước hành hương một chuyến đến Đức Mẹ La Vang, nhưng ...”[16].
Mặt khác, ông Nguyễn Văn Xê, ngồi canh chừng liên tục bên cạnh thi sĩ đêm 10 tháng 11 năm 1940, kể lại rằng đêm đó “Trí đều đọc kinh lần chuỗi cho đến ngày 11-11-1940 lúc 5 giờ 45 phút thì Trí nhẹ nhàng tắt thở một cách êm ái”.[17]
Như thế ước muốn sau cùng và những kinh nguyện cuối cùng là những cử chỉ yêu thương chân thành và tín thác dành cho Đức Mẹ và cuộc hành hương không thực hiện được ở đời này đã được thực hiện tuyệt vời khi ông bay về trời.
Hãy nói về Nữ Vương Thiên Đàng, Mẹ rất ân cần đã nhanh chân đến tìm ông với vòng hoa chắc hẳn là rạng ngời nhất!
Chính lúc đó, trên thi hài còn nóng của ông mà của báu La Pureté d’Âme đã được tìm thấy như đã nói ở trên. Trước đó đã lâu, Hàn Mạc Tử đã nghĩ ra trong đầu, ấp ủ trong tim và giấu trong y phục của ông bài ca - di cảo này – y như Thánh nữ thành Lisieux đã làm với bản kinh nồng cháy dâng mình cho Tình Yêu Nhân Hậu của Ba Ngôi Chí Thánh.[18]
“Văn là người” (le style c’est l’homme) người Tây phương nói thế. Văn chương được đọc giữa những dòng chữ, người Đông phương đáp lại, qua những đường gân (filigrane) như trong giấy bạc. Vậy nên, hồn thanh khiết mà ông ca ngợi nơi các trinh nữ đã được thánh hiến, thực chất cũng là hồn thanh khiết của chính ông. Hỡi linh hồn Hàn Mạc Tử, linh hồn đầy ân sủng, được tình yêu thiêu đốt, được lửa khổ đau thanh luyện, tinh khiết như nước đầu nguồn, sáng ngời như pha lê, nhẹ nhàng như thanh khí!... Hỡi linh hồn được chúc phúc mà ân sủng thánh hóa đã biến đổi nên giống với những linh hồn các “hôn thê Đức Kitô” từng làm ông thán phục và động viên những sức mạnh tâm linh của ông và cảm hứng ông đi lên những độ cao thần bí... cho đến khi đồng nhất với các hôn thê của Chúa! Và như ông đã bày tỏ trong bài ca vĩnh biệt, chính tại trần gian này đã hoàn thành các phép lạ khiến con người phải lặng thinh thán phục khi chiêm ngưỡng công trình thần bí của Đấng Tối Cao”.[19]
Và đó là bí mật của linh hồn Hàn Mạc Tử. Bí mật của cả một đời người và nhất là của con đường ngắn ngủi – như người ta có thể nhận biết nếu không phải là thoáng thấy – từ nơi lưu đày trên trần thế đến nơi vĩnh phúc.
Hàn Mạc Tử chết trẻ: 28 tuổi đời. “Những người mà các thần linh yêu thích thường chết trẻ” (ceux que les dieux aiment, meurent jeunes), một tác giả cổ điển và ngoại giáo đã nói thế. Còn hơn thế nữa, làm thế nào Thiên Chúa của các Kitô hữu, Thiên Chúa của sự thật, xưng mình là Tình Yêu lại không sớm lôi kéo về với Ngài đứa con rất dễ thương, rất ngoan ngoãn, rất mộ đạo ngay khi nó đã hoàn thành tốt cuộc lữ hành trần thế?
Cả cuộc đời của Hàn Mạc Tử, ông chỉ mơ đến Xuân như ý, theo đuổi Thượng thanh khí[20].
Chúng ta hãy nghe một vài tiếng thở dài của ông:
– Tôi mong ước đội vòng hoa vinh dự của Thiên Chúa
Và tắm mình trong suối nguồn ánh sáng.
(Ngoài vũ tru, trong tập Đau thương)[21]
– Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang!
(Ave Maria, trong tập Xuân như ý)[22]
– Hỡi các thiên thần trên trời, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an hoan lạc, xin mang xuống cho tôi một triều thiên.
(Hồn Thanh Khiết)[23]
Thiên Chúa vô cùng nhân hậu thường đáp lại những khát vọng tình yêu của con cái Ngài dưới trần gian với sự rộng rãi trên bình diện vũ trụ. Chính vì thế chúng ta phải nghĩ rằng Hàn Mạc Tử hẳn sẽ được ban thưởng không chỉ một triều thiên mà đến ba triều thiên:
+ Triều thiên Tông Đồ: Vì tâm hồn thi ca của ông chủ yếu thấm nhuần sứ điệp Tin Mừng, và tất cả nghệ thuật, tất cả tài năng mà người ta ca ngợi nơi ông cũng chủ yếu nhắm vào việc truyền bá Tin Mừng Cứu Độ cho những người còn chìm đắm trong bể khổ để họ được cứu như ông và với ông, như Lời Chúa đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề hãy đến cùng tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hòa và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
+ Triều thiên Ngôn sứ: Vì ông thường xuyên làm sáng tỏ, ca ngợi, tôn vinh Chân, Thiện, Mỹ cho tới Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối là Thiên Chúa. Như vậy là ông đã đóng vai trò như một ngôn sứ của Thiên Chúa, và xứng đáng lời chúc phúc này của Chúa Giêsu: “Ai đón nhận một ngôn sứ như ngôn sứ sẽ được phần thưởng dành cho ngôn sứ”. (Mt 11, 41)
+ Triều thiên Tử đạo: “Thi sĩ của đạo binh thánh giá” như ông đã nói về mình[24], đời sống của ông là một sự tử đạo không ngừng, tử đạo không phải bởi một thanh gươm, nhưng bởi cả ngàn mũi kim đâm, theo cách của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu ... Và tại sao ở đây không thực tế để nói rằng: Hàn Mạc Tử đã Tử đạo với hàng ngàn vết thương và hàng ngàn điều sỉ nhục bởi chứng bệnh phong thời đó...: “Phúc thay ai sầu khổ vì sẽ được Thiên Chúa ủi an”, Đức Giêsu, Vua của các tử đạo, đã xác nhận (Mt 5, 5).
* * *
Câu chuyện ẩn dụ Chơi giữa mùa trăng – hay nói về một đêm tối siêu hình – của cậu bé Hàn Mạc Tử đi chơi cùng với chị Lễ lúc đó mới mười lăm tuổi, kết thúc bằng những lời Hàn Mạc Tử nói cùng chị mình như sau:
“Không, không chị ơi! Rồi ánh sáng đêm nay sẽ tan đi, ta sẽ buồn thương và nhớ tiếc. Em muốn bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm thôi”[25].
Nguyện vọng ấy của Hàn Mạc Tử giờ đây đã được nhận lời. Ông đã đi vào ánh sáng vĩnh cửu. Chính vì thế ông đã vội vã quay về chia sẻ với chị Như Lễ, bây giờ là bà Bữu Dõng. Như thế câu chuyện ẩn dụ hôm qua đã có một kết luận có thật và đã xác nhận kết luận của ẩn dụ tức là mơ ước hôm qua.
Mơ ước ngày xưa của Hàn Mạc Tử như thế đã trở thành hiện thực. Giờ đây chính hiện thực ấy – (đã hẳn thuộc bình diện tâm linh) - đi vào giấc mơ của bà Như Lễ. Điều làm ngạc nhiên nhất là chính Hàn Mạc Tử đã thấy trước, loan báo và bình luận hết thảy điều đó như ông đã viết trong bài “Chiêm bao và sự thật”:
“Mộng tàn rồi, nghĩa là mộng biến đi, những điều tôi vừa thoáng thấy toàn là huyền hoặc cả? Có lẽ nào! Tôi đã thấy thực như đã thấy sự sống của tôi. Những phút giây trong sáng đây không phải là phút giây mê sảng nữa. Có ai nhận thấy hai hàng nước mắt của tôi không?”[26]
– Có chứ, hỡi nhà thơ yêu thương! Xin cho phép đứa em khiêm hạ trong lòng đời, trong văn chương và nhất là trong Thiên Chúa, được thưa với anh rằng em đã thấy hai hàng nước mắt nóng hổi của anh. Và đứa em này biết rằng đó là hai suối lệ tình yêu và hạnh phúc. Tình yêu khôn dò và hạnh phúc khôn tả mà anh đang tận hưởng hôm nay trong Xuân như ý của anh tức là trong Thiên Chúa, Chúa của chúng ta.
Phạm Đình Khiêm
(Trích Như Hương Trầm Bay Lên, kỷ niệm 70 năm ngày mất của thi sĩ Hàn Mạc Tử, Nxb Tôn Giáo, 2010, tr. 85-110)
PHỤ THÊM:
NHỮNG NHẠC PHẨM CẢM HỨNG TỪ BÀI THƠ AVE MARIA
Trong tiết Oeuvres de création en communion avec Hàn Mạc Tử trong cuốn Bibliographie critique sur Hàn Mạc Tử, Võ Long Tê đã đề cập đến những tác phẩm âm nhạc đáng chú ý mà bài thơ Ave Maria của Hàn Mạc Tử đã tạo nên nguồn cảm hứng.
Chúng ta mang ơn Võ Long Tê những xác nhận về thư mục như sau:
Lê Thương [Ngô Đình Hộ]
Kinh Tụng Sinh Nhựt, phổ thành nhạc các câu thơ: 1-4 (khổ thứ nhất), 9-12 (điệp khúc), 5-8 (khổ thứ hai), 13-16 (khổ thứ 3), 58-62 (khổ thứ tư), trong tuần báo Thế giới [Le Monde], Sài Gòn, số 10, từ 24 đến 30 tháng 12-1949 trang bìa 2 và 3. Người giới thiệu vô danh [theo Lê Thương là Dương Tử Giang, thư ký tòa soạn của tuần báo]
Được trình diễn lần đầu tiên bởi ca sĩ Trần Văn Trạch trong khuôn khổ nhạc cảnh nhan đề Phút sau cùng, tác phẩm của Lê Thương, với dàn nhạc của Võ Đức Thu, ở nhà hát Nguyễn Văn Hảo, Sài Gòn, ngày 13 tháng 2-1949.
Được trình diễn, từ lần xuất bản đầu tiên, từng phần hay toàn bộ, trong nhiều nhạc cảnh hay nhạc kịch, bởi những nghệ sĩ danh tiếng của Sài Gòn, dưới nhan đề ban đầu hay dưới những nhan đề khác, nhan đề sau cùng là Kinh Dâng Lên (trong một bản nhạc đã được chỉnh sửa mà tác giả có tặng cho Võ Long Tê).
Một trong những thành công của thập niên 50 và 60.
Lê Quang Nhạc (1924-1968)
Ave Maria
Toàn thể bài thơ được phổ nhạc
Được trình diễn lần đầu tiên trong Dạ Hội Văn Hóa để kỷ niệm năm thứ 16 ngày mất của Hàn Mạc Tử, được tổ chức ngày 11-11-1956 ở Huế, bởi nữ ca sĩ Thái Xuân, với tác giả bản nhạc chơi đàn vĩ cầm và các nhạc công khác tạo thành một dàn nhạc nhỏ phụ họa trong hoàn cảnh đó.
Được in trong tập Nhạc La Vang mà phần lớn gồm những nhạc phẩm của Chương Thi, Sài Gòn. Nhà in Sài Gòn Ấn Quán, 1957.
Hải Linh
Ave Maria
Toàn thể bài thơ được phổ nhạc dưới hình thức một bài ca bốn bè được chia làm sáu phần với những nhan đề tương ứng:
- Phần đầu tiên (các câu 1-12)
Ave Maria (Hợp ca mở đầu)
Đội hợp xướng Hồn Nước trình diễn lần đầu tiên ở Nhà hát Thống Nhất, Sài Gòn, Noel 1957, dưới sự chỉ huy của Hải Linh.
Phần này được in. Sài Gòn, xb. HL sđd. (1972, nếu chúng ta căn cứ vào giấy phép in mà Ban Kiểm duyệt cấp đề ngày 11-11-1972)
Xuất bản trên băng từ nhan đề Một giờ hợp ca số 1. Đội hợp xướng Hồn Nước trình diễn dưới sự chỉ huy của Hải Linh. Sài Gòn, xb. HL, sđd [1972]
Xuất bản trên đĩa 45 vòng. Sài Gòn số J.M.014, mặt 1. Đội hợp xướng Phanxicô trình diễn dưới sự chỉ huy của Duy Mai Ân, 8-12-1970.
- Phần thứ hai (các câu 13-22) nhan đề:
Ave Maria số 2: Dâng lời cảm tạ
Phần này được sao chép nhiều bản.
- Phần thứ sáu (câu 49-62) nhan đề
Ave Maria: Tấu Lạy Bà
Phần này được sao chép nhiều bản.
Các phần 3, 4, 5 được báo trước trong ấn bản của phần đầu (tr.3) và mặc nhiên không được công bố. Âm nhạc tuyệt vời của Hải Linh đã góp phần lớn vào sự thành công của bài thơ Ave Maria của Hàn Mạc Tử; nó được trình diễn nhiều lần trước những công chúng khác nhau, nhất là một tiết mục của Đại hội Âm nhạc Tôn giáo mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tổ chức dành cho thánh nhạc tại Sài Gòn ngày 21 tháng 11 năm 1971; tác phẩm này đã tạo nên một liên kết hoàn hảo giữa thi ca và âm nhạc.
Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 342-363.
[1] Hàn Mạc Tử, Chơi giữa mùa trăng, Hà Nội, xb Ngày Mới 1944, 80 tr. Sài Gòn xb lần 2, An Tiêm, 1969, tr. 88.
Chúng tôi tham khảo bản văn mà ông Võ Long Tê đã ghi chú và dịch ra tiếng Pháp trong tác phẩm phê bình: Hàn Mạc Tử: Somme de poésies et d’écrits en prose (nhan đề ấn bản tiếng Việt: Tổng tập thơ văn).
[3] Manuscrit du Purgatoire, Direction de l’Association de Notre Dame de la Bonne Mort, Sainte Marie, Tinchebray (Orne), France, xb lần 3.
[4] Nhật ký của linh mục Combe, Dernières années de Soeur Marie de la Croix, bergère de la Salette. Hội con Đức Mẹ La Salette. Beaupréau, France, 1967.
[5] Gm. Louis de Cooman. Le diable au couvents et Mère Catherine Diện. Paris, xb. Nouvelles Edition Latines.
[7] Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử [tiểu sử và phê bình văn học], Nxb Huế, 1941. Sài Gòn in lần 2 xb. Tân Việt, trong Thi Nhân Việt Nam.
Trong cuốn tiểu luận này chúng tôi dịch lại câu nói tiếng Pháp của Mẹ Marie de Saint Venant: “Ông ấy thật bé nhỏ, rất mực lễ phép và sống vẹn toàn đạo Kitô”.
[8] Theo Trần Thanh Mại (sđd. Số 7) Hàn Mạc Tử được đưa vào bệnh viện Quy Nhơn ngày 8 tháng 9, 1940 (tr. 191) và chuyển vào trại phong Qui Hòa ngày 20 tháng 9, 1940 (tr. 191) ở đó ông được đăng ký dưới số thứ tự 1134 (tr. 204).
Trong loạt bài mà Ô. Nguyễn Văn Xê công bố năm 1972 trong tạp chí Nguồn Thương mà Ông Võ Long Tê đã kiểm chứng lại trong cuốn Bibliographie critique sur Hàn Mạc Tử, ông đã xác nhận rằng khi đến trại phong, thi sĩ được Mẹ Juetta tiếp nhận, lúc đó mẹ chịu trách nhiệm khu bệnh nhân đàn ông nơi mà ông Xê làm phụ y tá. Hàn Mạc Tử lúc đó nằm ở giường số ba.
[9] Trang nhan đề này được chụp lại và in ở trang 7 tác phẩm Hàn Mạc Tử của Trần Thanh Mại (sách đã dẫn, xb. lần 2) với một chú thích như sau:
“Bên trang 7 là hàng chữ cuối cùng của Hàn Mạc Tử, viết một ngày trước khi chết . Người ta đọc: ‘Thơ cầu nguyện tặng anh Xê – François Trí’”. Anh Xê, họ Nguyễn Văn là một thanh niên hủi bạn đồng bệnh của Hàn Mạc Tử”.
Có một sai lầm trong chú thích ấy: trang nhan đề này được viết bằng bút chì trong buổi tối ngày 8 tháng 11, 1940 trước mặt ông Xê, ông này đã nhắc lại điều ấy trong một bài báo mà Ông Võ Long Tê đã kiểm tra lại trong Bibliographie critique sur Hàn Mạc Tử của ông.
Và có một sự thiếu sót mà ông Bùi Tuân đã nêu lên một cách kín đáo khi xác nhận trong ghi chú ở trang 5 bài báo của ông Nửa đêm đi tìm Hàn Mạc Tử (tạp chí Vinh Sơn, số 22, ngày 1 tháng 2, 1952, tr 4-5, 7) ông Tuân nói rằng ông đã tặng tập sách ấy cho Ông Trần Thanh Mại.
Cũng theo ông Bùi Tuân, đây là một tuyển tập các bài thơ từ tập Xuân như ý, món quà mà ông đã nhận được từ cháu ông là Nguyễn Văn Xê trong cuộc hành hương mùa hè năm 1941 đến viếng mộ của Hàn Mạc Tử ở Quy Hòa.
Chúng tôi lấy những thông tin này trong tác phẩm Bibliographie critique sur Hàn Mạc Tử trong đó cũng xác nhận sự tương hợp giữa các bài báo của Ông Nguyễn Văn Xê và của Ông Bùi Tuân liên quan đến bản đánh máy Thơ Cầu Nguyện.
[10] Xin nhớ những lời này là do Ông Nguyễn Văn Xê dịch những lời mà Mẹ Résurrection nói bằng tiếng Pháp.
[11] Những lời này cũng do ông Nguyễn Văn Xê dịch.
[12] Hoàng Trọng Miên [Trọng Miên, Hoàng Thu Đông], Những ngày sống chung với Hàn Mạc Tử ở Sài Gòn trong tạp chí Văn số 73-74, ngày 7 tháng 1, 1967, tr. 13-20. Bài viết đề ngày: Sài Gòn cuối năm 1966.
[13] Võ Long Tê. Introduction à la connaissance bio-bibliographiquede Hàn Mạc Tử trong Hàn Mạc Tử: Somme de poésies et d’ écrit en prose.
[14] Bài thơ gồm 62 câu thơ trong tập thơ chứa xuất bản Xuân như ý, bài thơ này được in trong tuyển tập Thơ Hàn Mạc Tử. [Hà Nội, nxb Đông Phương, 1942, tr. 83-84; Sài Gòn xb lần 2 Tân Việt, tr 76-78] dưới nhan đề Thánh nữ đồng trinh Maria.
Bản dịch tiếng Pháp một phần:
- Thái Văn Kiểm (các câu 9-12, 31-35, 60-62) trong Un grand Poète vietnamien: Hàn Mạc Tử. Tạp chí France-Asie, Sài Gòn, số 52, tr. 199 và tt.; xb. lần 2 song ngữ, France-Vietnam (khoảng năm 1951) tr. 23-24.
- Bùi Xuân Bào (các câu 13-18, 31-38) trong Le Roman vietnamien contemporain. Tiểu luận phụ để lấy bằng tiến sĩ quốc gia về văn chương, trình tại Sorbonne năm 1961. Sài Gòn xb. Tủ sách Nhân văn Xã hội, 1972, tr. 325-326.
Bản dịch tiếng Pháp đầu tiên cả bài thơ của Võ Long Tê trong Choix de pòemes de Hàn Mạc Tử avec traduction francaise et notes explicatives, phụ lục của bài nghiên cứu: L’Expérience poétique et l’ itinéraire spirituel de Hàn Mạc Tử BSEI, Sài Gòn, quý 4, 1972 (Bản in riêng).
[15] Xin xem phần phụ thêm ở cuối bài này.
[16] Trần thanh Mại đã có thông tin này từ Nguyễn Văn Xê thế nhưng ông đã tự ý đưa nó vào ngày 11-11-1940, ngày cuối cùng cuộc đời Hàn Mạc Tử, điều này không đúng. (xem tác phẩm của Trần Thanh Mại đã dẫn, tr. 204)
[17] Lấy lại của Võ Long Tê trong cuốn Bibliographie critique sur Hàn Mạc Tử.
Trần Thanh Mại (sđd tr. 204) kéo dài đời sống trần thế của Hàn Mạc Tử cho đến 11 giờ ngày 11-11-1940: chỉ là do nhầm lẫn hay cố ý gợi cho độc giả sự suy nghĩ về con số 11 được lặp lại ba lần trong ngày chết của Hàn Mạc Tử?
[18] Thánh nữ đã soạn bản kinh ấy ngày 9 tháng 6 năm 1895 và giữ bản kinh để cầu nguyện trong cuốn Kinh Thánh của riêng chị. Trong cùng tinh thần thánh hiến ấy, năm năm trước nhân dịp những năm đầu tiên vào dòng (8 tháng 9 năm 1890) chị đã soạn một bản kinh riêng cho mình và chị giữ trước ngực, dưới tu phục.
[19] Câu thơ thứ ba của bài thơ La pureté d’âme mà chúng tôi có nói dưới đây. Bản dịch tiếng Việt có chú thích Hồn Thanh Khiết của Phạm Đình Khiêm.
Văn bản phê bình, dẫn nhập và các phụ lục của Võ Long Tê. Sài Gòn, Tủ Sách Văn Sử, 1974, bản tiếng Pháp và bản tiếng Việt.
[21] Các câu 19-20 của bài thơ Ngoài vũ trụ trong tập thơ chưa in Đau thương. Chúng tôi trích dẫn làm đề từ cho tiểu luận này theo bản văn đã được Võ Long Tê hiệu đính và dịch ra tiếng Pháp trong tác phẩm của ông: Hàn Mạc Tử, Somme de poésie et d’ écrits en prose.
[22] Các câu thơ 60-62 của bài thơ Ave Maria của tập thơ chưa in Xuân như ý. Xem thêm chú thích 1 về bài Ave Maria ở trang 408 và phần phụ lục.
[24] “Đây thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”, câu thơ 29 của bài thơ Nguồn Thơm trong tập thơ chưa in Xuân như ý.
Cũng xem bài phê bình và bản dịch tiếng Pháp của Võ Long Tê, đã dẫn trong chú thích số 1 và số 13 ở trên. Xin cũng tham khảo thêm:
Võ Long Tê: Hàn Mạc Tử, poète de l’Armée de la Sainte Croix (Hàn Mạc Tử, thi sĩ của đạo quân Thánh Giá). Trao đổi thực hiện trong cuộc thảo luận tổ chức năm 1952 tại Huế bởi nhóm các giáo sư Công giáo ở Huế. Một phần của bản văn được in trong tạp chí Vinh Sơn, Huế, 1952, mở đầu có một ghi chú giới thiệu của giám đốc tạp chí nói trên. In lại trong nguyệt san Xã Hội, Sài Gòn, 1954, số Tết.
[25] Kết luận của bài thơ xuôi Chơi giữa mùa trăng.
Tác phẩm phê bình và bản dịch tiếng Pháp của Võ Long Tê trong tác phẩm đã dẫn, chú thích số 1 đầu bài.
[26] Chúng tôi lấy lại bản dịch tiếng Pháp của Võ Long Tê. Xem tác phẩm đã dẫn, chú thích số 1 ở đầu bài.
Mời mọi người cùng thưởng thức.