Á thánh Anrê Phú Yên, bổn mạng giáo lý viên Việt Nam, được mừng bổn mạng vào 26/7 hàng năm |
TRƯỜNG CA : THẦY GIẢNG ANRÊ PHÚ YÊN
Giáo lý viên Việt Nam thế kỷ 17
và là người Việt Nam đầu tiên
đổ máu công khai vì tin Đức Kitô
Lm. Phêrô Võ Tá Khánh
Thi hiệu Trăng Thập Tự
Viết theo cuốn
NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT
của Phạm Đình Khiêm
--- + ---
LỜI MỞ
Cây lành sinh trái ngọt
Đất thánh trổ người hiền
Trên quê hương Phú Yên
Có anh hùng tuổi trẻ
Dâng đời làm của lễ
Cho rạng rỡ danh Cha
Từ thuở dân tộc ta
Đang trên đà Nam tiến.
I
TIỂU SỬ
THẦY GIẢNG ANRÊ PHÚ YÊN
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Vào những ngày chinh chiến
Thời vua Lê Thần Tông (1)
Chúa Nguyễn ở Đàng Trong
Mở rộng dần đất nước :
Khi đoàn quân tiến bước
Đến non nước Phú Yên,
Nhiều tín hữu trung kiên,
Cũng theo chân lập nghiệp,
Vùng Mằng Lăng cảnh đẹp (2)
Lắm ruộng tốt đất màu
Tín hữu cũng đưa nhau
Cùng tiến vào xây dựng.
———————————————————————
IGA ĐÌNH ANRÊ
Giữa những người kiên vững
Có ông bà Gio-an
Rất đạo hạnh tinh toàn
Thương người và yêu Chúa.
Được ơn ban chan chứa
Sinh sáu bảy người con
Người nào cũng chăm ngoan,
Làm hay và học giỏi
Xứng con dòng cháu dõi
Những người sống Phúc Âm.
TUỔI THƠ CỦA ANRÊ
Năm một sáu hăm lăm (1625)
Trong lời mừng câu chúc
Ông bà cũng diễm phúc
Khi cậu Út chào đời
Có đôi mắt sáng ngời
Có nụ cười vui vẻ.
Ông Gio-an tạ thế
Út còn bé còn thơ
Xa linh mục nhà thờ
Út vẫn chưa rửa tội;
Nhưng từ khi tập nói
Nhờ chị hát mẹ ru
Út đã biết Giê-su
Gọi tên Ngài luôn miệng
Gần mẹ hiền thánh thiện
Có anh chị làm gương
Út ăn nói dễ thương
Biết chào thưa lễ phép.
Trong gia đình nề nếp
Biết gọi dạ bảo vâng
Học giáo lý siêng năng
Thích nghe lời Chúa dạy.
Út đọc kinh trôi chảy
Út cầu nguyện nghiêm trang
Trong lớp học trường làng
Út rất là chăm chỉ.
Bạn bè ai cũng quý
Thầy giáo khen xuýt xoa,
Tan học Út về nhà,
Vâng lời mà vui vẻ :
Thường mau tay giúp mẹ
Việc không kể gần xa
Lúc kiếm củi Sơn Chà (3)
Lúc chăn bò Văn Thánh. (4)
Cũng nhiều khi rỗi rảnh
Út nhí nhảnh thả diều
Chơi giỡn dưới nắng chiều
Thả câu theo sông Cái
Tập bơi thuyền đánh lưới
Nhìn sông nước say sưa
Út nhớ chuyện ngày xưa
Chúa ra làm phép lạ:
Giúp Tông đồ đánh cá,
Gọi họ bước theo Ngài.
Út mong ước một mai
Cũng theo Chúa như thế.
ANRÊ ĐƯỢC RỬA TỘI
Rồi một hôm gió nhẹ
Tiết Phục sinh trời trong
Lúa chín đã vàng đồng
Ai cũng mong cũng đợi
Chợt nghe tin phấn khởi
Có giáo sĩ đến thăm:
Một linh mục nhiệt tâm
Chính là cha Đắc-Lộ. (5)
Ngài giảng ơn cứu độ
Suốt cả hai tháng liền
Tối ở dinh Trấn biên (6)
Ngày đó đây bước rảo.
Người đón nghe đông đảo
Cả bên giáo bên lương
Thấm lẽ đạo tình thương
Quyết tin thờ theo Chúa.
Út thật sung sướng quá
Tuổi mười sáu rộn ràng
Ngày hồng phúc chứa chan
Từ bao năm ấp ủ.
Tại trấn dinh Hội Phú
Tức Thành cũ ngày nay (7)
Út được giáo sĩ này
Ban bí tích Rửa tội.
Từ nay Út được gọi
Bằng tên mới: An-rê
Ôi hạnh phúc tràn trề
Làm sao mà quên được.
Điều ngày nào mơ ước
Nên sự thật đây rồi
Lòng An-rê bồi hồi
Muốn xin theo giáo sĩ.
Nhưng đường dài thiên lý
Giáo sĩ còn đi xa (8)
An-rê ở lại nhà
———————————————————————
LÊN ĐƯỜNG
Năm sau như lời hứa
Với tín hữu Việt Nam
Cha Đắc-Lộ về thăm
Thiết lập đoàn thầy giảng
Chọn những người xứng đáng
Huấn luyện thành tông đồ
Rao giảng Đức Kitô
Cho đồng bào ruột thịt
Và đắp xây nước Việt
Trên nền móng yêu thương.
An-rê rất hiền lương
Thật thà và trong trắng
Đầy đạo đức sốt sắng
Khao khát được dâng mình
Sống cuộc đời hy sinh
Giảng Tin Mừng cứu thế.
Dù anh còn rất trẻ
Đã yêu Chúa nồng nàn
Cha Đắc-Lộ hân hoan
Nhận anh làm thầy giảng.
Lòng An-rê bừng sáng
Ôi vui sướng bao nhiêu
Từ giã mẹ dấu yêu
Lên đường theo Chúa gọi
Tay nhẹ nhàng khăn gói
Nhắm thẳng lối Hội An.(9)
———————————————————————
Ở TRƯỜNG THẦY GIẢNG
Mười anh em trong đoàn
Thầy An-rê trẻ nhất,
Đầy thông minh tư chất
Thật một đoá tinh hoa.
Ơn Chúa xuống chan hoà
Qua một năm gian khổ
Trong nhà cha Đắc-Lộ
An-rê học rất chăm
Vừa tìm hiểu Phúc Âm
Vừa học cách truyền giáo
Học việc đời việc đạo
An-rê học đủ điều
Tập kinh nguyện sớm chiều
Noi gương theo I-nhã. (10)
Với tâm hồn cao cả,
Thương người hơn thương thân
Thích làm việc tay chân
Từ dọn sân cuốc cỏ :
Sống khiêm nhường bé nhỏ.
Cha Đắc-Lộ nói rằng
Thầy như một thiên thần
Đủ mọi phần trong trắng.
Thầy âm thầm lẳng lặng
Giúp vị giáo sĩ già
Thầy tiếp tay với cha
Dựng xây vần quốc ngữ.
———————————————————————
TUYÊN KHẤN VÀ TRUYỀN GIÁO
Sau thời gian luyện thử
Nhờ Thiên Chúa ban ơn
Năm mười tám tuổi tròn
An-rê được tuyên khấn
Thầy đi cùng các bạn
Ra Huế giảng Tin Mừng.
Tại kinh đô tưng bừng
Đón mừng Sinh nhật Chúa
An-rê dọn hang đá
Ngay ở giữa dinh quan.
Thầy lo việc trang hoàng
Dọn nhà thờ sạch sẽ
Giúp đức tin bạn trẻ
Dạy giáo lý dự tòng
Hướng dẫn rất thành công
Giãi bày rất thông tỏ.
Thầy theo cha Đắc-Lộ
Đến tận bờ sông Gianh
Rồi trở lại kinh thành
Đi khắp nơi truyền giáo
Cho đến cuối tháng sáu
Về xóm đạo Hội An
Chờ đợi ngày vinh quang
Đổ máu đào mến Chúa.
———————————————————————
SÓNG GIÓ BẮT ĐẦU
Hồi ấy tại Thuận Hoá
Tức xứ Huế sông Hương
Chúa NguyễnCôngThượngVương (11)
Nhiều lần nghe thuyết giáo
Rất có lòng mến đạo
Để tín hữu tự do
Nhưng đáng tiếc thay cho
Vợ ông là Tống thị (12)
Sống lăng loàn ích kỷ
Hại nước và hại dân
Đã độc ác lắm lần
Tìm cách trừ đạo thánh.
———————————————————————
ÂM MƯU GIẾT HẠI
Một hôm trời trở lạnh
Có ông quan đại thần
Tụ tập các cao nhân
Đạo Nho và đạo Lão
Đến luận bàn tôn giáo
Với giáo sĩ Lịch-Sơn (13)
Mong biết rõ ai hơn
Để tìm theo đạo thật.
Nghe những lời đối chất
Cha Đắc-Lộ mỉm cười
Cha vui vẻ nhường lời
Cho trưởng đoàn : I-nhã
Lời thầy lưu loát quá
Lý lẽ rất hùng hồn
Nhóm nọ phải thua non
Đành ngượng ngùng lui bước,
Về tìm mưu nghĩ chước
Hại môn đệ Giê-su
Giết I-nhã báo thù
Họ đến nhờ Tống thị.
Sẵn bà này ác ý
Đang muốn diệt đạo lành
Vì lẽ đạo cao thanh
Dám trách người dâm loạn.
———————————————————————
ÔNG NGHÈ BỘ KHỦNG BỐ
Bà còn đang tính toán
Lại gặp lão quan tham
Ông Nghè Bộ Quảng Nam (14)
Về kinh đô có việc
Là một tay ác nghiệt
Từng khủng bố giáo dân
Đuổi giáo sĩ lắm lần
Bà liền giao mật lệnh.
Ông Nghè ỷ thế mạnh
Lòng gian ác càng thêm
Vừa vô đến Thanh Chiêm (15)
Đã ra tay bắt trói
Cụ trùm bảy ba tuổi
Tên là An-rê Son.
Ông Nghè lại sai quân
Lùng bắt luôn I-nhã :
Xuống Hội An tầm nã
Đám lính xông vào nhà
Họ lục lọi xét tra
Nhưng cả giờ không thấy.
Vì sáng nay thầy ấy
Cùng với mấy anh em
Đã nhắm hướng Thanh Chiêm
Đi với cha Đắc-Lộ.
———————————————————————
ANRÊ BỊ BẮT
Riêng An-rê bé nhỏ
Tình nguyện ở lại đây
Săn sóc cho bốn thầy
Hiện nay đang bị ốm.
Mới rồi trong lễ sớm
Chúa ngự đến trong lòng
Tim An-rê say nồng
Tình yêu đang rực cháy
Bỗng dưng bây giờ thấy
Có dịp được hy sinh
Hiến dâng mạng sống mình
Thật thoả lòng ao ước.
Thầy liền lên tiếng trước :
“Ông I-nhã đi rồi
Nhưng ở đây có tôi
Là một người tin Chúa
Lại là thầy giảng nữa
Các ông cứ bắt đi
Thầy kia có tội gì
Tôi cũng thì tội ấy
Sao lại không bắt lấy
Cho ai nấy hài lòng ?”
Đám lính giương mắt trông :
Thật chuyện không chờ đợi!
Họ tức thì xông tới
Quyết túm lấy thầy ngay.
Thầy đã vội chìa tay
Đưa cho người ta trói.
Thầy lặng thinh không nói
Nhưng đến lúc quan quân
Lôi dậy một bệnh nhân
Định kéo đi luôn thể,
Thầy lấy lời mạnh mẽ
Rồi lấy giọng ngọt ngào
Thuyết phục khéo làm sao
Nên họ tha thầy ấy.
Tìm lâu vẫn không thấy
Thầy I-nhã ở đâu
Đám lính đành bảo nhau
Lôi An-rê đi trước.
———————————————————————
KHÔNG NGỪNG RAO GIẢNG
Đồng bào như đám rước
Chạy theo coi rùng rùng
Thầy An-rê khiêm cung
Vừa đi vừa giảng đạo
Khiến kẻ lương người giáo
Ai ai cũng chạnh lòng.
Quân lính thấy đám đông
Sợ rằng không thuận tiện
Vội lôi thầy ra bến
Đẩy thẳng xuống thuyền ngay.
Trên thuyền thầy hăng say
Trình bày về Nước Chúa
Sông dài như dãi lụa
In trọn cả trời cao
Lòng người bỗng nao nao
Theo lời mời đạo lý.
Thầy An-rê thoả chí
Lòng hoan hỷ rộn ràng
Vì được Chúa thương ban
Cho chung phần thương khó.
———————————————————————
GIÁO SĨ GẶP ÔNG NGHÈ BỘ
Đường xa trong lúc đó
I-nhã với anh em
Đang nhắm hướng Thanh Chiêm
Cùng với cha Đắc-Lộ
Sắp vào thăm Nghè Bộ
Gây thiện cảm làm quen.
Họ đâu ngờ là chiên
Đang bước vào miệng sói.
May sao khi gần tới
Có người vội cho hay
Giáo sĩ bảo các thầy
Tạm ẩn mình lánh nạn.
Riêng mình cha bạo dạn
Vào dinh gặp ông Nghè
Cha muốn nói ông nghe
Những điều hơn lẽ thiệt.
Nhưng ông Nghè đã quyết
Nhất định chẳng nương tay.
Ông cấm cha từ đây
Không được đi giảng đạo.
Ông ngăm đe cảnh cáo
Ông muốn ép buộc cha
Phải rời bỏ nước ta
Đừng bao giờ trở lại.
Cha Đắc-Lộ khẳng khái
Từ biệt lão quan tham
Cha bước tới trại giam
Thăm cụ trùm dũng cảm
Giúp cụ thêm can đảm
Làm chứng cho đức tin
Rồi cha rảo bước liền
Tới chiếc thuyền đã hẹn.
———————————————————————
CÁC BẠN THOÁT NGUY
Thầy trò đang cầu nguyện
Dưới trời sao lưa thưa
Bỗng đám lính hồi trưa
Nhảy bùng lên xông xáo.
Miệng hỏi tra láo nháo :
“Có ai thấy môn đồ
Của giáo sĩ Gia-tô (16)
Chỉ để quan bắt trọn !”
Nhưng một người trong bọn
Lại chán nản bàn ra :
“Mới thấy họ đây mà !”
Rồi hò la rẽ lối.
Âm thầm trong bóng tối
Giáo sĩ với các thầy
Vội vã rút lui ngay
Kịp tìm nơi ẩn náu.
———————————————————————
ANRÊ BỊ TỐNG NGỤC
Trên quê nhà yêu dấu
Vũ trụ chìm bóng đêm
Trong thị trấn Thanh Chiêm
Đó đây đèn le lói.
Khoảng hơn tám giờ tối
Đám lính lao nhao về
Giải theo thầy An-rê
Nạp cho ông Nghè Bộ.
Lúc đầu ông dụ dỗ
Rồi sau đó ngăm đe
Ông muốn buộc An-rê
Phải từ cha bỏ Chúa.
Nếu bằng lòng cải hoá
Ông sẽ giúp mọi bề,
Còn nếu không chịu nghe
Sẽ thẳng tay trừng trị.
Thầy An-rê quyết chí
Một lòng xưng đức tin
Khiến ông Nghè bất bình
Sai gông xiềng tống ngục.
Nhà giam thật hạnh phúc
Hai An-rê gặp nhau
Chung một tiếng nguyện cầu
Chia nhau lời khích lệ.
———————————————————————
PHIÊN TOÀ CHỚP NHOÁNG
Đêm hè qua mau lẹ
Bình minh loé rạng dần
Lính điệu hai tù nhân
Ra toà nghe xử án.
Ông Nghè mưu đã sẵn
Giọng léo lận nhiều đường
Ông bảo rằng Thượng Vương
Truyền cho ông làm thế.
Qua đôi lời lấy lệ
Với ít kẻ quanh mình
Ông lấy án tử hình
Xử hai người công chính.
Ông lại còn quyết định
Đem chém nội trong ngày.
Dân chúng nghe tin này
Đầy ngạc nhiên ai oán
Trách ông Nghè độc đoán
Kết án quá vội vàng
Lương giáo đều thở than
Buồn thay cho công lý.
Riêng phần hai chiến sĩ
Lòng hoan hỷ tưng bừng
Mắt ứa lệ vui mừng
Miệng tuyên xưng tình Chúa.
———————————————————————
VẬN ĐỘNG XIN THA
Bên ngoài trời nổi đoá
Bốn phía dậy cuồng phong
Sóng cuồn cuộn bên sông
Thuyền ai mong cập bến ?
Cha Đắc-Lộ vừa đến
Cùng với mấy thương gia
Gốc người Bồ Đào Nha
Vội vàng qua dinh trấn
Xin ông Nghè xoá án :
“Xin ông nghĩ tình tha
Một người đã quá già
Một người còn quá trẻ”.
Ông Nghè nêu lắm lẽ
Chỉ thả cụ cao niên
Còn An-rê Phú Yên
Ông nhất định xử chém.
———————————————————————
TRONG NHÀ GIAM
Rời ông Nghè nham hiểm
Giáo sĩ vội bước ra
Cùng với mấy thương gia
Tới nhà giam ủy lạo.
Tại đây hai đồng đạo
Đã sốt sắng dọn mình
Chờ đợi phút hy sinh
Đang đọc kinh cầu nguyện.
Vừa nghe cha nói chuyện
Biết rõ lệnh quan tha
Cụ trùm Son khóc oà
Vì mất phúc tử đạo.
Cha Đắc-Lộ khuyên bảo
An ủi thật lâu dài
Cụ trùm mới nguôi ngoai
Cúi đầu vâng ý Chúa
Cha nước mắt dàn dụa
Ôm An-rê Phú Yên
Chung quanh người thanh niên
Mấy thương gia quỳ gối.
Nhiều tín hữu cũng tới
Cung kính cúi hôn chân
Thầy An-rê can ngăn
Thưa rằng : “Tôi tội lỗi”.
Rồi thầy lên tiếng nói
Khuyên ai nấy vững tin
Đừng sợ kẻ hành hình
Hãy sợ mình Chúa Cả :
“Anh em đừng buồn bã
Hãy mừng rỡ cho tôi
Vì Chúa thương tôi rồi
Mặc dù tôi bất xứng”.
Dáng khiêm cung thầy đứng
Như nhân chứng hiền lành
Tiếng đồn ra rất nhanh
Người chung quanh kinh ngạc,
Đổ dồn về như thác
Mong ước được ngắm nhìn
Người chứng nhân đức tin
Người thanh niên dũng cảm.
———————————————————————
NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT
Thầy An-rê thương cảm
Nói với đám đông rằng :
“Anh chị em thấy chăng
Tôi sẵn sàng chịu chết
Bởi vì tôi nhận biết
Một Thiên Chúa trên trời
Ngài thương yêu mọi loài
Ngài cho tôi tất cả.
Anh chị em đây nữa
Cũng được Chúa yêu thương,
Anh chị em coi chừng
Đừng coi thường ơn Chúa.
Chúa yêu thương ta quá
Ta hãy nhớ ơn Ngài
Kìa tôi thấy cửa trời
Đã được Ngài mở sẵn
Chúa nhân từ vô hạn
Đang đón nhận tôi vào”.
Lời thầy thật ngọt ngào
Ai cũng nao nao dạ
Cả kẻ quen người lạ
Đều như mở tấm lòng
Trước ơn Chúa thơm nồng
Tuôn như dòng sữa mẹ.
Chắp tay thầy nói khẽ :
“Chúa đã thương ta nhiều
Ta hãy lấy tình yêu
Đáp tình yêu của Chúa
Chúa chết trên thập giá
Đổ máu Chúa chan hoà
Hãy dâng sự sống ta
Mà báo đền sự sống”.
Lời thầy như lửa nóng
Đốt cháy cả lòng người
Nét mặt thầy vui tươi
Rạng môi cười hạnh phúc.
Giữa gông cùm tù ngục
Thầy rất mực tự do
Có chết cũng không lo
Vì chết cho danh Chúa
Muốn thêm ơn thánh hoá
Ơn phù trợ đến cùng
Thầy quỳ gối khiêm cung
Xưng tội lần sau hết.
Thầy ước ao được chết
Cứ tha thiết hỏi giờ :
“Sao người ta chần chờ
Sao người ta chậm thế ?”
Nhìn trời chiếu bóng xế
Giờ hạnh phúc gần kề
Thầy cầu nguyện say mê
Gọi Giê-su không ngớt.
———————————————————————
ĐƯỜNG RA PHÁP TRƯỜNG
Năm giờ chiều nắng nhợt
Thầy thanh thoát mỉm cười
Từ giã hết mọi người
Xin giúp lời cầu nguyện.
Người người đang lưu luyến
Đã thấy lính ùa vào
Mang giáo mác gươm đao
Dẫn tù đi xử tử.
Thầy An-rê hớn hở
Đã vội vã đón ngay
Cho họ sớm ra tay
Đưa thầy đi hành quyết.
Họ dẫn đi khắp hết
Các phố xá bến đò
Người mở lối hô to :
“Đạo Gia-tô đáng chết !”
Tiếng quân binh hò hét
Dân chạy riết theo xem,
Cả thị trấn Thanh Chiêm
Hướng về người chứng trẻ.
Người đông hơn đại lễ
Vượt qua cả cánh đồng
Ánh hoàng hôn phập phồng
Nhuộm hồng trên gò Sứ.
———————————————————————
LỜI TỪ BIỆT
Đây rồi nơi xử tử
Lính tráng đứng vây quanh
Thầy An-rê hiền lành
Quỳ nghiêm trang cung kính.
Cha Đắc-Lộ bình tĩnh
Xin phép lính vào theo
Khuyến khích người con yêu
Đổ máu đào vì Chúa.
Cha trải ra ở đó
Một chiếc chiếu mới tinh
Để hứng máu ngay lành
Muốn xin thầy quỳ gối.
Thầy khiêm cung từ chối
Xin cha cứ để cho
Được giống Chúa Kitô
Đổ máu đào xuống đất.
Quỳ chắp tay ngước mắt
Thầy nhìn trời vững trông
Quân lính đến tháo gông
Rồi lấy thừng cột trói.
Biết rằng giờ đã tới
Thầy An-rê quay nhìn
Những người cùng đức tin
Mắt dịu hiền tha thiết.
Thầy nói lời bất diệt
Lời từ biệt mọi người :
“Hỡi anh chị em ơi !
Hãy trung thành giữ nghĩa
Cùng Giê-su Chúa Cả
Cho hết sức hết hơi
Cho đến cả trọn đời”.
Người người rơi lệ khóc
Riêng mình thầy nhẩm đọc
Kinh “Kính mừng” như ru
Kêu tên Chúa Giê-su
Và kêu tên Mẹ Thánh.
———————————————————————
LỄ HY SINH TÌNH YÊU
Gió chiều phơn phớt lạnh
Lặng cả tiếng thì thầm
Rừng người đứng trầm ngâm
Nghe lý hình than thở :
“Lạy Trời, xin tha thứ
Tôi là kẻ thừa hành
Có đổ máu người lành
Xin Trời Xanh tha tội”.
Than rồi, ông bước tới
Cố nén tiếng thương đau
Lấy ngọn giáo đâm thâu
Xuyên từ sau ra trước.
Thầy An-rê vẫn ngước
Nhìn trời mắt đăm đăm
Rồi quay lại chăm chăm
Thầy chào cha Đắc-Lộ.
Lòng cha bao đau khổ
Vẫn gắng ngỏ một lời :
“Con ơi hãy nhìn trời
Giê-su Ngài đang đợi !”
Thầy nghe lời cha nói
Vội nhìn trời bao la
“Giê-su ! Ma-ri-a !”
Lời thốt ra luôn miệng.
Người lý hình tê điếng
Rút lại ngọn giáo dài
Đâm một nhát thứ hai
Rồi đâm thêm nhát nữa.
Thầy vẫn chưa gục ngã
Kiên vững cả xác hồn
Trên đôi môi như son
Vẫn kêu giòn danh Chúa.
Thấy cực hình lâu quá
Một người lính đứng gần
Tuốt ra lưỡi gươm trần
Nhắm chém ngay vào cổ.
Nhưng thầy vẫn quỳ đó
Danh Chúa thầy vẫn kêu
Thêm một nhát gươm vèo
Mới đứt ngang cuống họng :
Vọt lên dòng máu nóng
Cùng hai tiếng “Giê-su !”
Từ đáy lòng khiêm nhu
Của con người yêu Chúa.
Chúa yêu thương thầy quá
Cho giống Chúa mọi đường
Với năm dấu yêu thương
Với máu tuôn như suối.
Chết năm mười chín tuổi
Út đã trở nên đầu
Giục kẻ trước người sau
———————————————————————
Ý NGHĨA MỘT CÁI CHẾT
Mây chiều bay lờ lững
Đồi cao gió vân vê
Lính tráng đã ra về
Đám đông còn lưu luyến :
Kẻ lặng thinh cầu nguyện
Kẻ bịn rịn xót xa
Mấy người Bồ Đào Nha
Đem lụa đào lau thấm
Quý từng giọt máu thắm
Của một bậc hiền nhân
Tín hữu cũng chen chân
Nhặt nhánh cây cọng cỏ
Hốt lớp đất ướt đỏ
Có dính máu người hiền
Khiến lương dân đứng nhìn
Rất ngạc nhiên sửng sốt.
Không bỏ qua dịp tốt
Cha Đắc-Lộ đứng lên
Cha ứng khẩu giảng liền
Mấy lời khuyên tha thiết
Về ý nghĩa cái chết
Của thầy giảng An-rê
Về ơn phúc tràn trề
Của tình thương Thiên Chúa.
Đoàn giáo dân lệ ứa
Có mang sẵn quan tài
Họ tẩm liệm thi hài
Và máu đào quý giá
Rồi lời kinh cảm tạ
Vang trong gió chiều hôm
Như hương trầm ngát thơm
Bay về tôn nhan Chúa
Đêm trùm lên ruộng lúa
Thuyền xuôi ngả Hội An
Nhưng An-rê Phú Yên
Đã thắp lên ánh sáng.
Ôi người thật xứng đáng
Con của Mẹ Việt Nam
Từ đây đến ngàn năm
Sẽ không quên ngày ấy
Hai mươi sáu tháng bảy
Năm một sáu bốn tư (1644)
Dâng tiến Chúa nhân từ
Lễ đầu mùa nước Việt.
———————————————————————
II
MỘT SỐ VIỆC XẢY RA
SAU KHI THẦY AN-RÊ CHẾT (17)
………………………………………………………………………………..
LỬA CHÁY THÀNH CHIÊM
Thầy An-rê bị giết
Đã nên việc động trời
Dân chúng ở khắp nơi
Đều lắm lời kháo láo.
Việc càng thêm huyên náo
Vì liên tiếp ba ngày
Sau cái chết của thầy
Xảy ba lần hỏa hoạn.
Lửa tràn lan thị trấn
Lửa cháy chợ, cháy đình,
Cháy ngục thất, tư dinh,
Cháy phố phường, nhà cửa.
Từ đâu mà nổi lửa
Chẳng ai rõ, ai hay,
Có người bảo rằng đây
Giáo dân bày phù phép.
Nhưng phần đông miệng chép
Đây là việc trời làm
Oán trách lão quan tham
Đã giết người vô tội.
Lửa cháy thiêu, cháy rụi,
Lửa cháy vội, cháy mau,
Cháy sạch đường thương đau
Đã điệu người đi xử.
Lửa cháy hung, cháy dữ,
Cháy sạch đường hôm qua.
Chỉ trừ lại một nhà
Lại là nhà người lính
Rất hung hăng nóng tính
Thật ngạo ngược quá tay
Đã muốn đòi phanh thây
Sau khi thầy giảng chết.
Bây giờ lửa đốt hết
Anh mới biết tội mình
Tức khắc anh van xin
Người mà anh giết hại.
Thật lạ lùng ngang trái
Giữa đám cháy điêu tàn
Nhà anh được bình an
Như lời anh cầu khẩn.
———————————————————————
NGƯỜI HOA TIÊU VÔ HÌNH
Còn thi hài thầy giảng
Cha Đắc-Lộ giữ nguyên
Cha vẫn để trong thuyền
Đợi ngày đem gởi gắm.
Sang đến đầu tháng tám
Có tàu Bồ Đào Nha
Sắp nhổ neo đi xa
Vội vàng cha nhờ họ
Chở giùm quan tài đó
Về dòng Tên Áo-môn.
Sẵn có lòng kính tôn
Các thương gia hoan hỷ.
Còn riêng phần giáo sĩ
Giữ thủ cấp An-rê
Mong sớm hôm cận kề
Thoả tấm lòng quý mến.
Khi tàu ra giữa biển
Được gió thuận buồm xuôi
Người hoa tiêu mừng vui
Cho tàu đi đúng hướng.
Nhưng tàu như trở chứng
Tự định hướng tìm phương
Theo hẳn một con đường
Chẳng ai tường, ai rõ.
Tàu bất chấp ngược gió
Vẫn cứ đi dễ dàng.
Về tới bến bình an
Mới hay rằng dạo ấy
Trên đường tàu quen chạy
Có bọn cướp ngang tàng
Những chiếc tàu đi ngang
Có gì thường mất sạch
Chủ tàu và hành khách
Nghe vậy hết sức mừng
Ai nấy đều nghĩ rằng
Thầy An-rê phù hộ.
———————————————————————
ĐƯỢC ĐÓN TIẾP TẠI ÁO-MÔN
Tin này loan khắp phố
Người trăm họ xôn xao
Càng thêm lòng ước ao
Đón thi hài thầy giảng.
Khắp Áo-môn bừng sáng
Đèn hoa kết đầy đường
Chuông rộn rã du dương
Chào mừng thi thể ấy.
Cuộc khải hoàn lộng lẫy
Đón rước thật chỉnh tề
Đưa thi thể An-rê
Về nhà thờ Đức Mẹ.
———————————————————————
CHẾ NGỰ THÁI BÌNH DƯƠNG
Trong khi đó giáo sĩ
Còn liên lỉ âm thầm
Làm việc tại Việt Nam
Được một năm trôi chảy.
Năm sau đầu tháng bảy
Ngậm ngùi cảnh biệt ly
Cha bị đuổi ra đi
Phải xuống tàu thật gấp.
Tay cha ôm thủ cấp
Của thầy giảng An-rê
Mà đôi mắt trông về
Việt Nam rất yêu dấu.
Bỗng Thái Bình nổi bão
Dậy sóng gió kinh hồn
Như chấn động càn khôn
Các cột buồm gãy mất.
Người hoa tiêu hoa mắt
Các thủy thủ ngã lòng
Nhưng giáo sĩ cậy trông
Xin An-rê cứu chữa
Thủ cấp thầy để giữa
Chung quanh mọi người quỳ
Miệng khấn hứa thầm thì
Rồi cầu kinh Đức Mẹ.
Kinh cầu còn đang kể
Sóng gió đã yên hàn
Ai nấy được bình an
Lòng tạ ơn khôn xiết.
Về Áo-môn mới biết
Lúc họ thoát hiểm nguy
Cũng gần chỗ họ đi
Hai chiếc tàu bị đắm :
Bão nhận chìm thê thảm
Cuốn mất cả tăm hơi,
Chỉ sống sót mấy người
Về ngậm ngùi kể lại.
———————————————————————
ĐỤC ĐÁ VÁ TÀU
Qua những ngày chờ đợi
Đến tháng hai năm sau (1646)
Cha Đắc-Lộ đáp tàu
Đi Rô-ma báo cáo
Về công việc truyền giáo
Phát triển ở nước ta
Để xin Đức Thánh Cha
Gởi các vị Giám mục
Tới chăm nom coi sóc
Và tiếp tục công trình.
Tàu cha đang lênh đênh
Theo gió lành biển lặng
Bỗng dưng đâm thật mạnh
Vào một núi đá ngầm
Bị lủng cả dưới hầm
Gỗ nổi lên mặt nước.
Tàu kẹt không ra được
Mọi người mặt tái xanh
Cuống quýt lo dọn mình
Xin chết lành trong Chúa.
Giáo sĩ khuyên vững dạ
Cầm thủ cấp An-rê
Cha nói nhỏ thầy nghe
Xin cứu nguy thoát chết.
Tức khắc tàu khỏi kẹt
Và lại tiếp tục đi
Bình an chẳng việc gì
Cứ theo lời thủy thủ
Ván đóng tàu đã cũ
Có ghép gỗ thêm nhiều
Phần gỗ nổi lều bều
Chắc chỉ là lớp vỏ.
Lúc tàu về bến đỗ
Kéo lên cạn sửa sang
Ai nấy mới bàng hoàng :
Lủng tang hoang dưới đáy.
Xưa nay chưa từng thấy :
Đá đục lấy ván tàu
Rồi tách khối đá đầu
Vá chặt đâu vào đấy.
Ai ai nhìn thấy vậy
Cũng rất đỗi ngạc nhiên
Riêng hành khách được yên
Kể rằng trong nguy biến
Họ đã cùng cầu nguyện
Với thầy giảng An-rê.
———————————————————————
TẠI CHÂU ÂU
Hành trình dài lê thê
Sau bảy năm đằng đẵng
Thủ cấp của thầy giảng
Mới về tới Rô-ma (1652)
Được giữ như ngọc ngà
Tại nhà Bề trên Cả. (18)
Cha Đắc-Lộ cũng đã
Nhờ người họa hình thầy
Kèm tiểu sử in ngay
Trình bày cho thế giới.
Cho đến khi cha tới
Thủ đô Pháp : Ba-lê (1653)
Danh thầy giảng An-rê
Đã được nhiều người biết.
Có những người ốm liệt
Chữa chạy đã lâu ngày
Họ cầm ảnh của thầy
Cầu xin và khỏi bệnh.
Hồ sơ xin phong thánh
Cho thầy giảng An-rê
Từ Áo-môn gởi về
Đang chờ Tòa Thánh xét. (19)
———————————————————————
CÁC BẠN CỦA ANRÊ TẠI VIỆT NAM
Dưới bầu trời nước Việt
Sau cái chết của thầy
Đoàn thầy giảng mọi ngày
Đã đầy mười hai vị.
Cùng một lòng một ý
Làm chứng cho Giê-su
Bảy vị bị ở tù
Bị chặt chân một ngón.
Còn hai người anh lớn
Là I-nhã thuở nào
Và Vinh-sơn anh hào
Đúng một năm sau đó (20)
Cũng bị quan xử tử.
———————————————————————
TỪ ĐÓ HỘI THÁNH VIỆT NAM PHÁT TRIỂN MẠNH
Máu đổ vì Phúc Âm
Cho hạt giống nảy mầm
Khắp trời nam nước Việt.
Bao nhiêu người oanh liệt
Sống chết vì đức tin :
Một trăm ba chục nghìn
Đã hy sinh vì đạo.
Từ nhi đồng, phụ lão,
Từ thầy giáo, học trò,
Đến thợ thuyền, nông phu,
Thương gia và y sĩ,
Cả các bà, các chị,
Cả cụ lý, thầy cai,
Cả bà mẹ mang thai,
Quan quân và lính ngục,
Cả thầy dòng, Giám mục,
Cả cha xứ, ông trùm,
Người giúp việc nhà chung,
Nữ tu và thầy giảng,
Tất cả đều xứng đáng
Những nhân chứng tình yêu.
Người hy sinh càng nhiều
Người tin theo càng lắm
Cho quê hương tươi thắm
Cho Hội Thánh vững bền
Bốn trăm năm xây trên
Máu anh hùng tử đạo
Từ một miền truyền giáo
Nay Hội Thánh Việt Nam
Đã cùng nghĩ cùng làm
Với anh em thế giới.
———————————————————————
LỜI KẾT
ta đi phấn khởi
Mở lối bởi tiền nhân
Nén hương lòng tri ân
Tấm bia lòng ghi khắc.
Sau Phan-sinh xứ Bắc (21)
Đây An-rê Phú Yên
Là người Việt đầu tiên
Đã trung kiên làm chứng
Cho lòng ta tin vững
Cho hy vọng ta vươn
Cho đậm nét yêu thương
Cho quê hương ngời sáng.
Nguyện tiếp tay xứng đáng
Với sự nghiệp người hiền
Gương mẫu thanh thiếu niên
Và giảng viên giáo lý
Xin thành tâm quyết chí
Noi gương người khiêm nhu
Yêu mến Chúa Giê-su
Đến hiến dâng đời sống.
Trăng Thập Tự
(1) Các vị vua cuối thời nhà Lê bị hai dòng tộc lấn quyền, nước ta bị chia làm hai miền ở hai phía sông Gianh, mỗi bên thuộc một gia tộc được phong tước “vương”(quen gọi là “chúa”), miền Bắc thuộc quyền Chúa Trịnh, miền Nam thuộc quyền Chúa Nguyễn, hai bên đánh nhau nhiều lần. Về mặt đạo, miền Bắc được gọi là Xứ Bắc hay Đàng Ngoài, miền Nam được gọi là Xứ Nam hay Đàng Trong.
(2) Mằng Lăng : Một giáo xứ thuộc giáo phận Qui Nhơn. Nhà thờ Mằng Lăng nằm ở phía bắc thị xã Tuy Hòa (Phú Yên) 30 km, cách quốc lộ 2 km về phía đông, bên hữu ngạn sông Cái.
(3) Sơn Chà : Một ngọn núi ở Mằng Lăng.
(4) Văn Thánh : Chỗ đất trống trên sườn núi A-mang tại Mằng Lăng trước kia có đền thờ Đức Khổng Tử. Cánh đồng rộng phía đó được gọi là cánh đồng Văn Thánh.
(5) Cha A-lịch-sơn Đắc-Lộ (1591-1660) : Giáo sĩ dòng Tên, quê ở lãnh địa A-vi-nhông của Tòa Thánh (lãnh địa này nằm trên đất Pháp), truyền giáo tại Việt Nam từ 1624-1645. Cha đã giúp hoàn thành chữ quốc ngữ. Cuối đời, cha đi truyền giáo tại BaTư và chết ở đó.
(6) Dinh Trấn biên : Quân ta tới đâu đều lập đồn trấn giữ biên giới, dinh quan Trấn thủ gọi là dinh Trấn biên.
(7) Dinh Trấn biên của vùng Phú Yên lúc đó được đặt tại thôn Hội Phú, cách nhà thờ Mằng Lăng chừng 1 km, chỗ xây thành quách xưa, nay được gọi là Thành cũ.
(8) Mấy tháng sau thánh lễ rửa tội của An-rê, cha Đắc-Lộ đi Phi-líp-pin và Áo-môn một thời gian. Áo-môn (hay Ma-cao) là một thành phố trên bờ biển Trung Quốc, lúc đó thuộc quyền người Bồ Đào Nha, có nhà thờ chánh tòa và nhiều cơ sở tôn giáo.
(9) Cha Đắc-Lộ đặt trụ sở hoạt động tại Đà Nẵng và Hội An, mỗi nơi đều có nhà thờ chung cho giáo dân và nhà riêng cho các cha và các thầy.
(10) Trưởng đoàn thầy giảng là I-nhã, một người học thức cao, xin thôi làm quan để theo cha Đắc-Lộ và thầy I-nhã hướng dẫn các thầy theo tinh thần tu đức của thánh I-nhã Lô-dô-la, là vị thánh sáng lập dòng Chúa Giêsu (dòng Tên).
(11) Công Thượng Vương còn gọi là Chúa Thượng, tên thật là Nguyễn Phúc Lan. Ông là vị vương thứ ba của nhà Nguyễn, sau Tiên vương Nguyễn Hoàng và Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên. Ông cai trị từ năm 1635-1648.
(12) Tống thị, hay “Người đàn bà họ Tống” tức là bà Tống Thị Toại, vợ của ông Nguyễn Phúc Kỳ là anh ruột Nguyễn Phúc Lan. Sau khi ông Kỳ chết, bà lén lút sống như vợ của ông Lan là em chồng bà. Để tránh khỏi bị phanh phui những chuyện mờ ám, bà đã gây ra một cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn lần thứ tư (1648) và gây náo loạn phủ Công Thượng Vương. (xem “Người chứng thứ nhất”, trang 109-113, báo Văn Đàn số 48, trang 8).
(13) Tức là Cha A-lịch-sơn Đắc-Lộ.
(14) Ông Nghè Bộ hay Ông Bộ là tiếng người bình dân dùng để gọi chức cai bạ (Cai bộ). Ông Cai bạ tỉnh Quảng Nam này tên gì sách không ghi lại. Tuy ông chỉ giữ một chức nhỏ dưới quyền quan Trấn thủ nhưng có lẽ quan Trấn thủ quá bận việc quân sự nên ông ta được dịp lộng hành. (Người chứng thứ nhất, 116-117).
(15) Thanh Chiêm là dinh Trấn biên của tỉnh Quảng Nam, cách Hội An chừng 10 km ngược dòng sông.(Người chứng thứ nhất, 121-124).
(16) Gia-tô : tức là “Giê-su”, theo cách đọc hồi xưa.
(17) Chỉ có những sự kiện được Tòa Thánh công nhận là một phép lạ, ta mới được gọi là phép lạ đúng nghĩa. Những sự kiện sau cái chết của thầy An-rê chưa được Tòa Thánh công nhận, chúng ta chỉ nhắc lại như những kỷ niệm trìu mến về thầy An-rê.
(18) Nhà Bề trên Cả dòng Tên. (Người chứng thứ nhất, 190-192).
(19) Hồ sơ xin phong thánh cho thầy giảng An-rê đã được thiết lập từ 1645, được tổng kết năm 1901 (Người chứng thứ nhất, 207-215). Sắc lệnh của ĐGH Urbanô VIII cấm chỉ mọi việc tôn sùng công cộng đối với những nhân vật không được phong chân phước hay phong hiển thánh. Đối với một tôi tớ Chúa, đang được điều tra để phong thánh cũng thế, không được tôn sùng công cộng. Tôn sùng công cộng nghĩa là có người nhân danh Hội Thánh (như linh mục v.v…) đứng ra tổ chức các việc : cầu kinh, rước, trưng bày ảnh tượng trong nhà thờ v.v… Còn những việc các giáo dân tự động có sáng kiến tỏ lòng tôn kính đối với một tôi tớ Chúa, dù là tụ tập đông người, mà không có sự tham dự của giáo quyền, thì không phải là tôn sùng công cộng. (Xem các chi tiết giáo luật trích lại trong Người chứng thứ nhất, 215-216).
(20) Ngày 26-7-1645
(21) Phan-sinh, tức Phanxicô, là một giáo dân ở Đàng Ngoài, giúp việc cho một vị quan lớn trong phủ Chúa Trịnh. Vì Phan-sinh nhất quyết tin thờ Chúa Giêsu nên bị vị quan ấy giết chết năm 1630. Tiếc rằng ta không biết được gì nhiều về Phan-sinh. (Người chứng thứ nhất, 24 và 223).