HƯƠNG SEN GIỮA MÙA VỌNG

(Dâng kính Mẹ Vô Nhiễm)


Quê hương con cứ tới mùa đông lạnh,
Lũ lụt tràn đồng, bão tố liên miên…!
Đường nứt vỡ bờ cây thẳng hóa xiên,
Mẹ phờ phạc bao đêm dài nước bạc…


Con sông xanh giờ bèo trôi xơ xác,
Tiếc làm sao bên ấy chiếc hồ sen.
Cánh trắng lá xanh dưới nắng bình yên,
Giờ còn lại chỉ một màu trắng đục…!



Cho dẫu cứ đắng cay màu thế tục,
Mùa Vọng đã về nhắc chuyện thiêng liêng.
Chúa lại đến đây thăm viếng mảnh đời riêng,
Cất hết khăn tang, và lau khô dòng lệ…

Mùa Vọng tím như một lời đoan thệ,
Giao ước nghìn năm nay đã trỗ hoa.
Mẹ vào đời mang hương sắc bay xa,
Như hừng đông lên giữa đông dài sắc tím !

Mẹ chúng con, Mẹ Chúa Trời Vô Nhiễm,
Cánh sen giữa lầy rực ngát hương thiêng.
Mảnh đất mỡ màu Thiên Chúa chọn riêng,
Tòa ngọc trắng đựng “nhụy vàng Con Chúa” !

Cho dẫu biết vẫn mùa đông héo úa,
Vẫn đợi, vẫn chờ, mong mãi “bước chân xa” !
Mẹ mang Chúa về trời đất sẽ hoan ca,
Mùa Vọng sẽ mãi là mùa xuân miên viễn !

Sơn Ca Linh
Lễ Mẹ Vô Nhiễm 2017

MẸ VÔ NHIỄM


Hỡi người trinh nữ thơm duyên
Măng thon tay chạm vô biên của Trời
Dạ nên cung điện Ngôi Lời
Nhân sinh chỉ một mình người đầy ơn

Giữ tình Trời đất keo sơn
Địa đàng nhiệm ý kết hôn cùng Bà
Nơi Bà Đấng Thánh sinh ra
Mang ơn Cứu độ giao hòa nhân gian

Người là Hoàng Tử Bình An
Bà đầy phúc đức nên hàng Mẫu Nghi
Tinh tuyền Ngọc thể lưu ly
Hồn không vướng nhiễm điều chi tội tình

Lạy Bà Thánh Mẫu Đồng trinh
Cho tôi Cứu Chúa tế sinh tuyệt vời
Mang ơn vũ lộ xuống đời
Đem tôi từ đất lên trời thơm duyên

Lạy Bà Vô Nhiễm Tội Truyền
Giúp tôi nên thánh giữa miền dương gian

07-12-2013
Mic. Cao Danh Viện

NGÔN NGỮ TIN MỪNG TRONG DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM


Mỗi lần nghĩ về quê hương, nghĩ về đất nước, nghĩ về những giá trị truyền thống của dân tộc, tôi chợt nghe vang vọng đâu đây những lời ca trong khúc nhạc “Đất Nước” : Bài hát được nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn dệt nhạc phỏng bài thơ của thi sĩ Tạ Hữu Yên : “Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bâu…Đất Nước tôi từ thuở còn năm nôi, sáng chắn bảo giông chiều ngăn nắng lửa. Lao xao trưa hè một giọng cao dao, lao xao trưa hè một giọng ca dao…”.




“Thon thả giọt đàn bầu, lao xao trưa hè một giọng ca dao”, theo tôi hình ảnh giản đơn đó, âm thanh dung dị đó đã gói gém tất cả cái hồn, cái chất, cái “dáng đứng Việt Nam” đầy ắp thân thương và gần gũi, sâu lắng và mượt mà. Và có lẽ đó cũng chính là một trong những cánh cửa mở ra cho những ngôn ngữ nào, văn hóa nào muốn “đi vào tâm hồn Việt Nam, muốn hội nhập văn hóa Việt Nam”.

May mắn làm sao, trân trọng làm sao! Ngay từ buổi khai sinh Giáo Hội tại Việt nam, các Vị Thừa Sai tiên khởi, các Vị Tiền Bối khai đạo của Hội thánh Việt Nam, khi giới thiệu Chúa Kitô cho Dân Việt, khi đem hạt giống Tin Mừng rắc gieo trên cánh đồng Việt Nam, đã đi trên cái nẽo “thon thả giọt đàn bầu, lao xao câu ca dao” đó ; nghĩa là đã khôn khéo giới thiệu một “Tin Mừng mang dáng đứng Việt Nam”, một giáo lý gần gũi với tâm thức, ngôn từ và quan niệm tín ngưỡng của đồng bào Việt Nam, dân tộc Việt Nam, một dân tộc mà những câu ca dao ru con thường ngày đã cưu mang một nội dung tín ngưỡng tôn giáo, một tôn giáo thờ trời, một tín ngưỡng gần gũi với mạc khải Thánh Kinh, mạc khải về sự quan phòng của Thiên Chúa:

Tháng Năm gặt hái đã xong

Nhờ Trời một mẫu năm nong thóc đầy

Lạy trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cày

Lấy đầy bát cơm,

Lấy rơm đun bếp…



Trăm năm dù có thế nào

Dưới thì có đất trên cao có Trời

I. LỜI THIÊN CHÚA MANG “DÁNG ĐỨNG NHÂN LOẠI”

Chọn lựa cách “hội nhập văn hóa” để chuyển tải Tin Mừng, để loan truyền chân lý cứu độ sao cho hiệu quả và phong phú, cách làm của Cha Ông ta đó nào đâu có phải là chuyện mới mẻ gi đâu ! Từ thuở xa xưa khi bộ tộc của Ít-ra-en còn trong thời “ăn lông ở lổ”, khi tổ phụ của dân tộc họ, cụ Áp-ra-ham còn lang thang trên các thảo nguyên sống đời du mục, Thiên Chúa đã áp dụng nguyên tắc “hội nhập văn hóa” mang tính “nhập thể” rồi. Có nghĩa là Lời Mạc Khải của Thiên Chúa khi đi vào thế giới đã chọn đi qua “một chiếc cửa nhân loại” là “lịch sử của dân tộc Ít-ra-en” với tất cả những yếu tố nhân văn, địa lý, xã hội, chính trị, kinh tế, pháp luật, lịch sử …của dân tộc nầy. Toàn bộ tuyệt tác Thánh Kinh Cựu và Tân ước phải chăng là “Lời mạc khải nhập thể giữa lòng nhân loại qua lịch sử của dân tộc It-s-ra-en”, là cuộc “hội nhập văn hóa” của chính Thiên Chúa để chuyên tải cho nhân loại những chân lý của trời cao, một cuộc hội nhập thiết thân, sâu sắc như mưa, như tuyết thấm sâu trong mãnh đất trần gian :

“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời

không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,

chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,

cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,

thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta,

sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,

chưa thực hiện ý muốn của Ta,

chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”

(Is 55, 10-11)

Cũng chính với nguyên tắc “hội nhập văn hóa” đó, mà chúng ta tìm thấy ngôn ngữ của Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước mang nhiều “dáng đứng” khác nhau, theo trào lưu lịch sử văn hóa xã hội của dân tộc Ít-ra-en : Từ thể văn mang tính huyền thoại, cổ tích (Sáng Thế, Tin mừng thời thơ ấu), đến anh hùng ca lịch sử (Xuất Hành, Samuen, Ma-ca-bê-ô…), pháp đình lề luật, phụng tự (Thứ luật, Lêvi…), khải huyền tiên tri (Đa-ni-en, Ê-giê-ki-en, Khải huyền của Thánh Gioan…), châm ngôn huấn đạo (Khôn ngoan, Châm Ngôn, Giảng Viên..), thi ca trữ tình (Diễm tình ca), truyện ngắn tình yêu (Hô-sê…), ca kinh nguyện cầu (Thánh vịnh…).

Và khi “Ngôi Lời thành xác phàm và cắm lều ở giữa chúng ta” (Ga 1,14), thì Ngài cũng không làm gì khác hơn cái cách “sư phạm truyền thống” của Thiên Chúa. Ngài đã nói Lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của dân tộc Ngài, Ngài đã vận dụng những chất liệu của cuộc sống đương thời để diễn tả các chân lý cao sâu của huyền nhiệm Nước Trời : Những hình ảnh chúng ta gặp thấy trong Tin Mừng như : “Người Mục Tử vác chiên trên vai”, “Cây nho sai trái”, “Tấm lưới thả xuống biển”, “Những cô trinh nữ cầm đèn đi đón tân lang”, “cây hoa huệ ngoài đồng”, “con chim se sẻ trên cành cây”… nào có xa lạ gì với đời thường của dân Palestine thuở ấy. Quả thật “ngôn ngữ của Thiên Chúa mang dáng đứng nhân loại là thế đó !

II. NGÔN NGỮ TIN MỪNG TRONG “DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM”

(Hay, cách “HỘI NHẬP VĂN HÓA” của Giáo Hội Việt nam)

Thật không “phải đạo” chút nào nếu Hội Thánh lại đi ngược hay không chọn đi con đường mà Thiên Chúa đã chọn, mà Đức Kitô đã đi : con đường nhập thể, con đường hội nhập văn hóa”. May mắn làm sao, trên cuộc hành trình sống và chuyển tải đức tin suốt hơn 2000 năm nay, Hội Thánh đã vận dụng mọi yếu tố tốt đẹp của văn hóa, văn minh con người trong việc diễn tả, sống và loan truyền chân lý đức tin. Thánh Phêrô, Thủ lãnh các Tông Đồ, Giáo Hoàng đầu tiên, ngày từ những ngày đầu Hội Thánh đã được Thánh Thần linh ứng cần phải chọn lựa con đường “hội nhập đó qua thị kiến “tấm khăn lớn với đủ mọi thú vật, rắn rết…” (Cv 10, 9-16). Trong khi đó Thánh Phaolô, một vị Thánh ký, một thần học gia, một nhà truyền giáo vĩ đại đã tóm gọn nguyên tắc nầy trong mấy từ cô đọng và súc tích : “Không còn chuyện phân Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3, 28). Và thế là Hội Thánh lớn mãi lên, vươn mình trên mọi miền thế giới, mang Tin Mừng Chúa Kitô rắc gieo trên khắp các cánh đồng văn hóa thế giới ; và cứ như thế, Tin Mừng của Chúa đã mang “dáng đứng của nhiều dân tộc, nhiều ngôn ngữ, nhiều loại hình văn hóa, lễ nghi, phụng tự… của mọi dân trên khắp địa cầu. Công Đồng Vatican II đã long trọng xác nhận điều đó như một nguyên lý nền tảng để hình thành và xây dựng Giáo Hội : “Giáo Hội, tức Dân Thiên Chúa, họp thành Nước ấy, không loại bỏ di sản trần thế của bất cứ dân tộc nào ; trái lại, Giáo Hội cổ võ và thu dụng tất cả những gì tốt lành nơi tài sản, nguồn lực và phong hóa của các dân tộc, và khi thu dụng, Giáo Hội tinh luyện, kiện toàn và thăng hóa chúng” (Hiến Chế Giáo Hội chương II, số 12). Trong khi đó, với Tông huấn “Ecclesia in Asia” (Giáo Hội tại Á Châu”, Đức Gioan Phaolô II đã có những giáo huấn rạch ròi : “Từ viễn ảnh nầy, thấy rõ ràng việc Phúc Âm hóa và hội nhập văn hóa liên hệ với nhau cách tự nhiên và mật thiết. Tin mừng và việc rao giảng Tin Mừng chắc chắn không đồng hóa với văn hóa, không tùy thuộc vào nó. Nhưng Nước Thiên Chúa đến với muôn dân là những người liên kết sau xa với một nền văn hóa, và do đó việc xây dựng Vương Quôc không tránh khỏi mượn các yếu tố từ các nền văn hóa nhân loại. Vì vậy, Đức Phaolô VI nói việc tách biệt Tin Mừng ra khỏi văn hóa là thảm trạng của thời đại chúng ta, gây ảnh hưởng sâu xa trên cả việc rao giảng Tin Mừng và nền văn hóa” (GHTAC số 21).



May mắn làm sao ! Những nguyên tắc nầy, những định hướng nầy đã được Cha Ông ta áp dụng từ lâu. 
Thật vậy, không đợi phải có “Công đồng chung Vatican II với định hướng của Hiến Chế “Vui Mừng và Hy vọng”, không đợi đến những chỉ thị cụ thể có tính mục vụ thực tiển của Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu”, ngay từ đầu, khi Tin Mừng được gieo trồng trên Đất Việt, Cha Ông ta đã biết thế nào là “Hội nhập văn hoá”, thế nào là “diễn tả Tin Mừng bằng ngôn ngữ và văn hoá bản địa”, thế nào là “trình bày ngôn ngữ Tin Mừng trong dáng đứng Việt Nam”. Chúng ta thử đọc lại chứng từ của Cha Đắc Lộ, một Nhà truyền giáo vĩ đại, một nhà văn hóa lớn khi nói về công nương Catarina, môt tín hữu của giai đoạn Tin Mừng mới đi vào Đất Nước ta : “Còn con gái Bà, công nương Catarina (cùng mang thánh dánh như mẹ) rất ham học biết và suy gẫm các mầu nhiệm của đạo, và vì công nương rất giỏi về thi ca bản xứ, nên đã soạn bằng thơ rất hay tất cả lịch sử giáo lý, từ tạo thiên lập địa cho đến Đức Ki-tô giáng thế, cuộc đời, sự thương khó, Phục sinh và Lên trời của Người. Lại còn thêm ở cuối tập thơ một đoạn tường thuật việc chúng tôi tới Đàng Ngời và công cuộc khởi sự rao giảng Tin Mừng. Tác phẩm nầy rất có ích vì không những giáo dân tân tòng từng ngâm nga trong nhà, nơi thành thị cũng như chốn thôn quê, mà cả nhiều lương dân, khi ca hát và thích thú với lời ca dịu dàng, thì cũng học biết được những mầu nhiệm và chân lý đức tin” (A. De Rhodes- Histoirre du Royaume de Tunquin. Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài). Nhà học giả Phạm Đình Khiêm, trong bài tham luận tại cuộc TỌA ĐÀM “MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA CÔNG GIÁO VIỆT NAM TỪ KHỞI THỦY ĐÉN ĐẦU THẾ KỶ XX”, đã nhận xét thêm về sự kiện nầy bằng những dòng trân trọng : “Thế là khi đức tin vừa gieo vào lòng đất chốn kinh kỳ (1627), thì từ một lá ngọc cành vàng đã nảy sinh thiên trường ca vang dội khắp xứ, nhờ phương tiện phổ biến là những bản in khắc gỗ mà đất Thăng Long rất sở trường. Đất nghìn năm văn vật có khác!”. (Nhìn qua những chặng đường thi ca Công Giáo Việt Nam. Phạm Đình Khiêm).

Trước hết, chúng ta nên dành riêng sự trân trọng và biết ơn đến các Thừa sai tiên phong đem Tin Mừng Đạo Chúa đến quê hương nầy, và đã vận dụng ngôn ngữ Việt Nam để chuyển tải Tin Mừng cho dân Việt chúng ta. Dấu ấn đặc biệt nhất có lẽ là tác phẩm giáo lý bằng chữ quốc ngữ đầu tiên : “PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY” do Cha A. De Rhodes chủ biên và xuất bản năm 1651)

Kế tiếp những công trình “hội nhập văn hóa” mang tính đột phá và tiên phong đó, Hội Thánh non trẻ Việt Nam tiếp tục lên đường chuyển tải Tin Mừng và chân lý cứu độ qua những công trình văn hóa mà cho đến mãi hôm nay chúng ta chỉ biết cúi đầu bái phục :

- Giáo sĩ Majorica (Dòng Tên) : với trên 50 tác phẩm vừa dịch, biên soạn, sáng tác bằng văn xuôi hay văn vần chữ Nôm chuyển tải giáo lý, hạnh các thánh…

- Thầy Phanxicô, cựu hòa thượng : Với tác phẩm Hán-Nôm là bản Kinh Nguyện Giỗ CẢM TẠ NIỆM TỪ, quen gọi là PHỤC DĨ CHÍ TÔN

- Thầy giảng Gioan Thanh Minh : Với 15 phẩm bằng chữ Nôm ca ngợi các danh nhân, các Thánh

- Linh mục Lữ –Y Đoan (1613-1678): Với tác phẩm SẤM TRUYỀN CA bằng thể thơ lục bát

- Ông Raphael Đắc Lộ (1611-1687) : Với các tác phẩm thi ca : VÃN THÁNH GIUSE và VÃN ÔNG TOBIA

- Tác phẩm lục bát trường thi INÊ TỬ ĐẠO VÃN với 563 câu thơ lục bát kể chuyện tử đạo của Bà Inê năm 1700

- Linh mục Philipphê Bỉnh viết nhiều tác phẩm với nhiều thể loại : trước tác, biên soạn, dịch thuật, hồi ký, thơ… đặc biệt với tác phẩm SÁCH SỔ SANG CHÉP CÁC VIỆC

- Linh mục Đặng Đức Tuấn (1806-1874) : Nhiều tác phẩm Hán-Nôm : VIỆT NAM GIÁO SỬ DIỄN CA, LÂM NẠN PHỤC QUỐC HÀNH, MINH DÂN VỆ ĐẠO KHÚC, VĂN TẾ GIÁO DÂN TỬ NẠN, VĂN TẾ CÁC ĐẲNG LINH HỒN, GIÁO NẠN TRONG QUỐC BIẾN…

- Thánh Phan văn Minh : Với thi phẩm “PHI NĂNG THI TẬP”

-Linh mục Trần Lục (1825-1899) : Với các tác phẩm thi ca lục bát : HIẾU TỰ CA (1088 câu), NỮ TẮC THƯỜNG LỄ (1016 câu), NỊCH ÁI VONG ÂN (440 câu).

- Ngoài những tác giả với tác phẩm, tư liệu mang tính chuyên môn về thần học, giáo lý, tu đức…, còn có nhiều loại hình “hội nhập văn hóa khác” trong các lãnh vực khác như : chính trị (Các bản điều trần của LM. Đặng Đức Tuấn, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ; kiến trúc : (các nhà thờ Hảo Nho, Bình Sa (Ninh Bình), An Vân, Đốc Sơ, An Truyền (Huế), Trung Lao, Thôn Đông (Nam Định), Ba Làng (Thanh Hóa), đặc biệt là quần thể kiến trúc Nhà Thờ Phát Diệm (Kim Sơn, Ninh Bình) ; sử học (Đại Nam quốc sử diễn ca của Trương vĩnh Ký (1837-1898), tiểu thuyêt (Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887) ; kịch (Kịch thơ Mùa Xuân Thánh, Quần Tiên Hội của thi sĩ Đơn Phương 1991) ; múa (Các loại hình Dâng Hoa tháng Đức Mẹ) ; Biên khảo, nghiên cứu (Phạm Đình Khiêm, Võ Long Tê (Mai Hoa Công Chúa, Minh Đức Vương Thái Phi, Người chứng Thứ Nhất : biên khảo lịch sử của học giả Phạm Đình Khiêm ; riêng Võ Long Tê có trên 50 công trình nghiên cứu và sáng tác. Trong số đó phải kể các công trình nghiên cứu thơ ca Hàn Mặc Tử…) ; báo chí (Thánh Thể báo, 1919 địa phận Phát Diệm, Thánh Giáo Tuần Báo Bắc Kỳ (1920-1923), Trung Hòa Nhật Báo (Hà Nội, 1924-1943), nhật báo Công Giáo Đồng Thinh, 1927-1937 và tờ tuần báo Công Giáo Tiến Hành , 1936-1938, tạp chí Sacerdos indosinensis (1927, tạp chí Dức Bà Hằng Cứu Giúp (1929 của ĐP Hà Nội, tuần báo Văn Côi (Nam Định), Vì Chúa (Huế), Lời Thăm (Qui Nhơn)…; thi ca (Thơ Nôm Phước Môn tuyển tập thơ của Nguyễn Hữu Bài do Nguyễn Thức sưu tập (1959), Sảng Đình thi tập của linh mục J.M. Nguyễn Văn Thích (1943). Trong lãnh vực thi ca, chúng ta làm sao không nhắc đến những tên tuổi lừng danh trên thi đàn Việt Nam như :

- Hàn Mặc Tử (1912-1940) với những bài thơ bất hủ như Thánh Nữ Đồng Trinh, Ra Đời,

- Bàng Bá Lân (1912-1988), một Kitô hữu tân tòng, với các bài thơ “Đêm Giáng Sinh”, “Cầu nguyện với Đức Mẹ”, “Cảm hóa.

- Hồ Dzếnh (1916-1991), một Kitô hữu tân tòng, với tuyển tập thơ “Tác Phẩm Đầu Xuân (1944) với nhiều bài thơ Công Giáo.

- Phạm Đình Tân (1913-1933) : với tập thơ “Lời Thiêng”

- Linh mục thi sĩ Xuân Ly Băng (1936) : Với nhiều tập thơ đạo như Thơ Kinh, Hương Kinh, Hiến Chương Nước Trời, Bài Ca Thương Khó…

- Lê Đình Bảng (1942) : với các thi phẩm : Hành Hương, Lời tự tình của bến trần gian, Quỳ trước đến vàng…

- Linh mục Trăng Thập Tự : Trường ca Anrê Phú Yên, Tiên Tri, Quỳ Hoa...

Chúng ta còn phải ghi nhận nhiều đóng góp khác trong việc diễn tả Lời Chúa, Thánh Kinh bằng ngôn ngữ Việt Nam, cho dù không phải là những tác phẩm được phổ biến sâu rộng, nhưng đã góp phần không nhỏ trong tiến trình Hội Nhập Văn Hóa của Giáo Hội Việt Nam. Đó là các nỗ lực của các tác giả như Tống Viết Toại (Phúc Am diễn ca, 1956), Mai Lâm (Thánh Vịnh Toàn tập, 1958), Long Giang Tử (Phúc Am diễn ca, 1975), Linh mục An Sơn Vị (Ngủ Kinh, Thánh Vịnh thánh ca, Tân ước), Linh mục Giuse Đinh Cao Thuấn (Trường ca cứu độ , Ca vang Lời Chúa, đường về Đất hứa,), linh mục Cao Vĩnh Phan (Trường ca Dân Chúa : giáo lý bằng thơ lục bát), linh mục Lê quang Trình (Kinh thánh Khởi nguyên, Thánh Vịnh bằng thơ lục bát)…và hôm nay, chúng ta đang tưởng niệm, đang nhắc nhớ đến một con người, một linh mục và một thi sĩ đã góp phần to lớn trong tiến trình Hội Nhập Văn Hóa của Hội Thánh Việt Nam : đó là Cha F.X. Nguyễn Xuân Văn với đại thi phẩm trường thiên lục bát 9764 câu thơ, thi phẩm về cuộc đời Chúa Cứu Thế qua bốn Tin Mừng : “SỨ ĐIỆP TÌNH THƯƠNG”.

Chính Cha Nguyễn Xuân Văn đã bộc lộ ý định “Hội nhập” nầy khi Ngài nhắn gởi chúng ta trong lời Phi lộ của tác phẩm :

Tôi muốn đem Lời Chúa

Lời thơ Tình Thương

Ghép thành vần

Đặt lên miệng các bà mẹ

Để từ đó

“Chảy vào tai các em bé,

Đang nằm trong nôi.

Hay trên cánh tay dịu hiền của các bà

Như dòng sửa ngọt

Chứa đầy chất dinh dưỡng siêu phàm

Để nuôi các em lớn lên

Trong tình thương của Chúa…

“Tôi ước ao Lời Chúa,

đến với các bạn

với những kẻ khó nhọc và gánh nặng

Những người mất niềm tin

Mất hy vọng trên cõi đời nầy.

Hỡi các bạn ! Hãy lắng nghe

“Đây là Sứ Điệp Tình Thương,

Ngân vang muôn thuở, vấn vương muôn lòng”

(Sứ điệp Tình Thương, Lời Phi lộ)

Với “SỨ ĐIỆP TÌNH THƯƠNG”, tác giả Nguyễn Xuân Văn có thực sự đã đạt được mục đích ấy chưa ? Để trả lời câu hỏi ấy, và nhất là để một lần nữa khẳng định rằng : khi được gieo trồng trên mãnh đất Việt Nam, quả thật, “ngôn ngữ của Tin Mừng đã mang dáng đứng Việt Nam”, tôi xin được giới thiệu những bài khảo luận, những nhận định và phê bình, những cảm nhận và tưởng nhớ của một số học giả, nhà nghiên cứu, văn, thi sĩ, các Đấng Chủ Chăn, những bạn hữu thân thiết và những học trò… về cố linh mục thi sĩ F.X.Nguyễn Xuân Văn và tác phẩm “SỨ ĐIỆP TÌNH THƯƠNG” của Ngài. Đây cũng chính là món quà nhỏ xin kính dâng về Cha Phanxicô Xaviê như nén hương lòng tưởng niệm nhân ngày Đại Giỗ giáp hai năm qua đời của Ngài : 10.01.2002 – 10.01.2004.

Linh mục Giuse Trương Đình Hiền
Nguồn: http://www.dunglac.info/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=118&ia=1778

Truyện Ngắn: Phố ABỒ


Alice Springs? Gớm! Cái phố nhỏ như mắt muỗi, có đốt đuốc cháy mười ngày cũng chẳng nom thấy đâu trên bản đồ nước Úc.


Chẳng bù lại cho Sydney, tòa nhà con sò Opera trắng toát kim cương, lấp lánh bạc vàng. Cầu Harbour bắc ngang lung linh soi bóng màu xanh biêng biếc đại dương. Đêm giao thừa, pháo bông bắn chạy dọc ngang đốt sáng rực một cõi thiên thai. Tuyệt vời! Thiên đàng hạ giới!

Melbourne, thành phố văn hóa một ngày bốn mùa duyên dáng như cô gái tuổi hai mươi lăm, không quá trẻ để mà ngớ ngẩn ăn nói vô duyên mất lòng thiên hạ, mà cũng không đã toan về già tàn phai nhan sắc.

Brisbane, khu phố Việt rộn ràng hàng quán. Muốn dựa mận thịt chó hả? Cứ kín đáo ghé vào nói nhỏ mấy câu thôi. Nhớ! Đừng có ồn ào tuồng như chợ trời Dandenong, thiên hạ Úc Châu biết, người ta cười cho vào mặt. Ừ, nói nho nhỏ thôi. Bồi bàn trong bếp khệ nệ bưng ra ngay tô medium, bốc khói thơm mùi mẻ cười cười nói khẽ dựa mận kangaroo chính hiệu con nai vàng Úc Châu.

Adelaide và Perth nào chịu thua kém, bên tám bên mười, tiết canh lòng lợn, mỗi phố một vẻ mười phân vẹn mười. Tới đi, biết liền. Bảo đảm thịt chó chính hiệu Kiếm Đen Ông Tạ! Nếu không hài lòng với đặc sản, chủ quán đích thân lái xe Bimmơ đi thẳng một mạch tới quầy móc túi hoàn trả lại bằng tiền tươi.

Nhỏ nhất phố cảng Darwin. Nhưng nhắc tới tên ai mà lại không biết thị trấn Nhất Kiếm Trấn Ải. Phố Darwin nhiệt đới nổi danh xoài tượng chấm mắm tôm, nhãn tiến vua hột bé đầu kim bán từng chùm dọc vỉa hè phố Việt! Buồn buồn, muốn bay về Việt Nam, JetStar bán vé khứ hồi Darwin-Sài Gòn, rẻ như bèo! 90 đồng một vé. Ngủ bốn tiếng trên phi cơ. Mở mắt ra, Sài Gòn hoa lệ chớp sáng dưới chân.

Đấy!

Ai đâu như cái chấm đen Alice Springs! Thiên hạ có mấy người biết. Hỏi thăm hàng xóm Việt Nam xa gần,

— Này, này, có biết cái phố Alice Springs ở đâu không?

— Ai mà biết! Hình như Alice Springs hàng xóm, sát nách Darwin đấy…

Khổ! Hỏi han khô cả nước miếng mà người Việt nào có mấy người biết… Lên trang mạng Google đánh đại vào hai chữ Alice Springs cầu may. Khi đó mới tá hỏa tam tinh. Chết chửa! Alice Springs nằm ngay giữa nước Úc, toàn là dân Abồ (Aboriginal), thổ dân Úc Châu chính hiệu. Thành thật thú nhận, nói chung dân Úc gốc Việt không biết nhiều về phố sa mạc Alice Springs. Có gọi cứ như gọi đò sang sông mà cũng chẳng có ma nào ghé viếng thăm phố…thì thôi… xin phép, cứ gọi là phố Abồ. Cho tiện!

Phố Abồ trên dưới ba mươi ngàn dân. Mùa hè tháng Chạp trời nắng cháy đỏ quăn tin tít mái tóc, thiên hạ rủ nhau chạy trốn xuống phương nam phố Adelaide tránh hạn. Khi đó Abồ vắng hoe tựa phố ma ám! Nhưng đừng có nhìn mặt mà bắt hình dong! Sau tháng Giêng, gió hây hây thổi mát lòng người, dân phố Abồ lườm lượt rủ nhau “cóc chết ba năm, quay đầu về núi!”. Khi đó phố vắng lại đông tựa như hồn ma ngày cúng cô hồn! Phố Abồ nhỏ đến nỗi dạo chơi thong thả khoảng ba mươi phút là hết nhẵn. Khu phố chính, giời ạ! đếm được đúng hai con đường, một, Hartley, hai, Todd Mall. Hartley, công sở, thương xá và chợ búa; dân địa phương và khách du lịch dập dìu ban ngày. Todd Mall, ngược lại, rộn ràng khoe sắc về đêm. Mặt trời vừa biến mất sau rặng núi xa xa, quán sá tuần tự hú nhau bật đèn, soi đường dẫn lối du khách rủng rỉnh túi tiền vào ăn tối. Trong quán tiếng Đức tiếng Pháp trộn lẫn tiếng Tàu tiếng Hàn xì xà xì xào. Ngoài đường quân ta chính gốc Abồ hét tiếng thổ. Thế là nguyên hình phố Abồ phơi ra. Hợp Chủng Quốc thứ hai! Đủ sắc dân, đủ loại người!



oOo

Hôm nay trưa tháng Giêng, phố Abồ nóng kinh hồn! Nhiệt độ mùa hè chỉ cao con số 42 đỏ bầm tiết canh! Thiên hạ nhăn mặt nhăn mũi, trốn hết. Nhưng lạ chưa, cha xứ nhà thờ Abồ đang ngồi ăn trưa tỉnh bơ trong quán. Mặt ông đỏ bừng bừng, chẳng biết tại rượu vang đỏ hay tại trời nắng gắt. Người tinh mắt kháo với nhau cha xứ nhà mình hồi xưa đeo bông tai. Không tin, bữa nào cứ làm bộ kéo ghế ngồi sát sát phía bên tay trái. Lỗ xỏ nhìn vẫn còn rõ mồn một.

Nhiều người không ưa cha xứ nhà thờ Abồ bởi nhiều lý do. Thứ nhất, ông làm cha mà chẳng ra vẻ cha cụ tí nào. Mở miệng là có tiếng đệm, tiếng Đan Mạch um xùm tựa dân trà đá, xích lô,

— Con bà nó!...

Thiên hạ khó chịu cự nự rùm trời,

— Cha cụ thời nay, đố có ai hiểu!

Y phục xứng kỳ đức! Cha cụ Kangaroo, mặc dù không cổ trắng áo chùng thâm đen như cha cụ Việt Nam, nhưng ai nấy đều có cây thánh giá nho nhỏ cài cổ áo. Nhìn biết liền cha cụ. Cha xứ nhà thờ Abồ… Well, xin lỗi, năm thì mười họa cài được cây thánh giá vào áo. Nhưng kiếng hiệu Versace, ông có hai, một kiếng râm, một kiếng cận. Đồng hồ Longines nhận hột kim cương nổi cồm cộm tay trái. Tối tối mười hai con số phát sáng dạ quang nhìn đẹp rực rỡ như bầu trời sa mạc lấp lánh sao đêm. Quần, áo, giầy, ông chơi toàn đồ hiệu, CK, Giorgio Armani, Kenneth Cole. Không thiếu! Đủ cả! Thiên hạ không nhịn được, bĩu môi, buông nhời,

— Hèn chi giáo xứ nghèo! Ván lễ nào cũng hai ba lần quyên góp!

Nhưng cái rắc rối khiến ông nổi tiếng nhất vùng là bởi thằng Quasimodo. Khổ! Ông nuôi thằng bé gần mười lăm năm nay rồi. Hồi đó ông nói với giáo dân mẹ nó người Abồ chết vì ung thư. Trước khi nhắm mắt qua đời, ông kể chuyện, người phụ nữ thều thào,

— Cả đời con chưa bao giờ mở miệng ăn mày nhà thờ...

Nhắm đôi mắt đã gần lạc thần, người đàn bà thổ dân bập bẹ đôi môi nứt nẻ,

— Giờ, con chỉ xin Chúa, xin nhà thờ một chuyện mà thôi...

Ông nói ông bị đặt vào tình thế bỏ thì thương mà vương thì tội. Trước mặt một người đang hấp hối, chẳng lẽ cương quyết lắc đầu? Ai nỡ! Nhưng làm cha cụ, trông coi một giáo xứ hẳn hoi, giờ mang thằng nhỏ về nuôi, thật đúng đẽo cầy giữa chợ. Thiên hạ bàn ra tán vào, ông chịu sao thấu!

Nghe ông kể chuyện, có người không kiêng nể, cắc cớ hỏi thẳng thừng,

— Vậy bố nó đâu? Sao không giao thằng bé cho bố đẻ nó nuôi?

Ông sa sầm nét mặt, chép miệng, nói mà như than, nói mà như đang nói với chính mình,

— Khổ! Nào có biết bố nó ở đâu!

Ông thểu não bổ túc chi tiết như người khai cung,

— Tôi có hỏi nhà thương, nhưng họ nói không biết... Đơn nhập viện, cô ấy để trống tên bố thằng nhỏ!

Có người hỏi tới,

— Sao cha không tới làng của cô ấy mà hỏi cho ra lẽ…

Ông thở dài sườn sượt,

— Biết! Tôi cũng đã cất công lái hơn ba tiếng đồng hồ đường đất tới đó. Nhưng ai cũng nói cô ấy bỏ đi lâu lắm rồi. Nghe nói nấu bếp cho ai đó… Mấy tháng trước ôm thằng con trai mấy tháng về nền đất cũ, dựng lại túp lều… Rồi đổ bệnh…

Vuốt lại đôi mắt cho người một thời nấu bếp cho nhà xứ, ông bế thằng nhỏ về nhà xứ. Mấy hôm sau ông làm giấy khai sinh, đặt tên John, nhưng vẫn giữ nguyên họ mẹ. Thiên hạ cắc cớ thì thào truyền miệng gọi thằng nhỏ Quasimodo, tên của nhân vật thằng gù nhà thờ Đức Bà. Riết, cái tên đẹp đẽ, chẳng ai nhớ. Mở miệng ra là,

— Quasimodo… Mày đâu rồi, Quasimodo?

Mà thằng bé lành như Bụt. Nghe thiên hạ gọi Quasimodo, cũng quay lại, miệng cười tươi, nhe hai hàm răng trắng bóc người Abồ. Thế là chết tên!

Quasimodo giờ cũng đã lớn tướng. Mười ba tuổi rồi. Thiên hạ thì thào,

— Khéo vẽ! Làm bộ dựng chuyện mẹ nó dân Abồ, chết vì ung thư.

— Ừ! Nhìn mặt nó đi, ai dám biểu dân Abồ…

Mà cũng khó trách thiên hạ lời ong tiếng ve. Quasimodo người Abồ, nhưng trắng tươi màu da Viễn Đông, tóc không quăn tít, nhưng thẳng, cứng, đen, sợi tóc dầy và bóng…

— Thì cứ đợi đi...

— Đợi cái gì?

— Thì còn đợi cái gì? Đợi nó lớn hẳn hoi, ắt biết!

— Biết cái gì?

Người đàn ông gắt gỏng,

— Ơ hay! Biết cái gì? Thì biết ai là bố đẻ của nó ngay chứ còn biết cái gì…

Người kia càu nhàu,

— Vẽ chuyện. Cần gì phải đợi. Cứ thử DNA thì lòi ra ngay. Việc gì phải chờ! Rách việc!

Người kia không vừa, tay chỉ về phía nhà xứ,

— Ông nói hay lắm. Sao không tới thẳng nhà thờ, gõ cửa, nói với ông ấy…con nhờ cha dẫn thằng Quasimodo tới phòng Lab lấy máu thử nghiệm… Chỉ được cái tài tán hươu tán vượn!

Ngoài vụ thằng Quasimodo, thiên hạ gặp nhau hay tụm ba tụm bẩy thì thào,

— Ổng gặp đàn bà con gái là miệng cứ tươm tướp…

— Nè, ăn nói phải cho cẩn thận. Ở đây tai vách mạch rừng. Dầu sao người ta cũng người tu hành…

— Tu hành cái mốc xì! Bụt ngồi trên chùa, gà nào mổ mắt! Nhìn mặt biết liền thầy chùa thịt chó!

— Sao chị biết?

— Tối thứ Ba, ghé vào tiệm Paradise. Thấy liền… Lộ nguyên hình!

Người kia nhăn đôi chân mày kẻ chì nét nhỏ xíu, mặt ngớ ngẩn hỏi lại,

— Paradise? Tiệm nào vậy cà?

— Bà nội! Kỳ này đổi tánh rồi hay sao? Melbourne, bà là chuyên viên sòng bài cơ mà…

Người phụ nữ cự nự,

— Chị, cái tật cứ ưa nói quá! Tiền đâu mà sòng bài với sòng bạc. Bỏ lên phố Abồ là nương nhờ cửa chùa, xuống tóc đi tu rồi.

Người kia gật gật đầu, nhìn người đối diện, ánh mắt nghi ngờ,

— Để coi! Anyway… Paradise là tiệm ăn của sòng bài lớn nhất phố. Bữa nào quởn quởn, tui dẫn tới đó ăn tối cho biết.

— OK. Nói, nhớ giữ lời. Ủa, nhưng đang nói chuyện ông cha cơ mà, giờ sao đổi đài nói chuyện tôi bà nội!

— Ừa hén, quên! Chiện là như thế này. Có mấy lần thứ Ba, tui ghé vào Paradise ăn tối. Tối thứ Ba, Paradise on sale. Mua hai phần ăn, người thứ ba được ăn free. Cho nên tối thứ Ba quán ăn đông nghẹt. Ta nói lần nào cũng vậy, bước chân tới quán là thấy ổng ấy xúm xít với mấy bà mấy cô, nhất là gái Phi... Ông thần, thiệt hết nước nói!

Người đàn bà thì thào,

— Mà nói cái này, chỉ có bà chị nghe thôi. Đừng có oang oang cái miệng. Tới tai ổng, ổng cự tui tắt đài.

Người phụ nữ mặt khẩn trương,

— Có mấy lần tui còn thấy ổng ấy kéo máy. Lấp lấp trong xó, sợ người nhìn thấy. Nhưng có mà thoát được cặp mắt của tui.

Bà ta bĩu môi,

— Nhà thờ thì nghèo, giáo dân toàn dân Abồ, tiền lương được mấy đồng! Cái này chắc là lại ngứa ngáy tay chân, móc tiền nhà thờ táy máy kéo máy...

Bà ta bồi một cú chót,

— Bài giảng Chúa Nhật, Chúa Mẹ không thấy nhắc nhở, cứ mở miệng là tiền. Trăm lần cả trăm. Không thiếu lần nào! Ai cũng ngáp, chán ngấy như cơm nếp nát!

Người phụ nữ gốc Melbourne như chợt nhớ ra, thắc mắc,

— Sao bà không đi lễ nhà thờ khác?…

Người kia bĩu môi, dài cả tấc,

— Có mà đi lễ nhà thờ khác!

— Ủa! Sao vậy?

— Nhìn đi! Quanh đây có nhà thờ nào khác cho người ta shop around...

Đúng là như vậy! Ngẩng lên hướng bắc, nhà thờ Tennant Creek, 508 cây số đường trường. Chẳng lẽ gia đình con cái túm tụm dẫn nhau lái xe năm tiếng đồng hồ thánh lễ cuối tuần. Được một ván lễ, mất toi mười tiếng lái xe. Có mà khùng! Quay xuống hướng nam, ngót nghét 650 cây số dẫn tới nhà thờ hầm Coober Pedy, đường xa vạn dậm. Ngó sang hướng đông có nhà thờ thổ dân nhỏ bằng cái lỗ mũi, đường đất đỏ đá sỏi góc cạnh 80 cây số. Lái khoảng một tiếng, banh-ta-lông luôn cả cái xe đời mới. Nhìn về hướng tây, đồng không mông quạnh. Thôi, đành chịu phận cá nằm trên thớt!

Đó, nom cho kỹ đi. Ông bà mình nói, “Ba mặt một nhời”… Đó! Quán Gardens nổi tiếng trên đường Todd Mall, ông cha xứ vẫn còn đang ngồi với mấy người thân, người xấu miệng gọi đó là tay chân, lính của ổng. Tiếng cười tiếng nói râm ran, cứ như chợ phiên Todd Mall họp cuối tuần.

Thiên hạ đang nhăn nhăn mặt nhìn, bất ngờ tiếng chân chạy huỳnh huỵch trên mặt đường nhựa nổi lên lôi kéo nhiều người chuyển hướng. Tưởng ai, hóa ra thằng Quasimodo. Mặt nó tái xanh! Sợi tóc lòe xòe bay phất phới theo bước chân chạy. Nó thì thào vào tai ông cha xứ mấy câu. Tới phiên ông, mặt đang đỏ bừng bừng, chuyển sang xanh tái. Ông kêu to, “Chúa ơi!” Ông vội vàng đứng dậy, hốt hoảng bỏ đi. Thiên hạ hiếu kỳ, xếp hàng rồng rắn nối đuôi theo sau.

Chuyện chi vậy cà?

Từ quán ăn về tới nhà xứ trên dưới năm phút. Một đoạn đường ngắn. Vượt qua cánh cửa nhà thờ lúc nào cũng mở rộng, mọi người hốt hoảng nhìn lên tượng Đức Mẹ Abồ. Người người hốt hoảng nhận ra thánh nữ đồng trinh máu đỏ ngấn tròn con mắt trái!!! Dưới chân tượng, những hạt máu đọng lại vẫn còn đỏ tươi…

Thiên hạ người người rú lên!

Một người bình tĩnh bước tới, giơ ngón tay quẹt nhè nhẹ vào giọt máu dưới chân tượng. Ông đưa ngón tay lên mũi ngửi ngửi. Mặt ông tái xanh, miệng nói ngay, “Mùi máu tanh nồng!”. Người đàn ông nhìn qua khung cửa, bầu trời xanh ngăn ngắt bỗng dưng vần vũ kéo mây đen. Ông quỳ thụp xuống ngay dưới chân tượng, trái tim thép nguội từ bao lâu nay bỗng dưng mềm nhũn, đôi môi ông thầm thì lời kinh! “Kính mừng Maria! Đầy ơn phúc”…

Tiếng đồn vang xa, chẳng mấy chốc cả phố Abồ kéo tới chật ních sân giáo đường. Vòng trong vòng ngoài người san sát. Người Abồ, dân Úc, người Ấn Độ, Phi Luật Tân, đủ cả, dân địa phương cũng như du khách, tất cả sát sát… Tiếng người đọc kinh, tiếng người thì thào, tiếng khóc sụt sùi, tiếng đấm ngực thùm thụp, tiếng khóc nức nở! Tất cả trộn lại, tưởng như tận thế đã tới, bắt đầu từ phố Abồ…!



oOo

Cha xứ Abồ rút lui vào trong phòng, không quên treo ngoài khung cửa nhà xứ bảng chữ to tướng, “Closed”!

Ông suy nghĩ, không hiểu chuyện gì đã xảy ra! Tượng thạch cao Đức Mẹ Abồ đứng ở đó cả chục năm nay rồi. Từ những ngày đầu tiên khi đặt chân tới phố Abồ nhận nhiệm sở mới, ông đã nhìn thấy tượng đứng cao trên bệ, góc trái nhà thờ, ngay dưới chân cột trụ của gác ca đoàn. Giáo dân nhiều người như một thói quen thường lệ, sau thánh lễ, hay dừng một bước chân trước tượng đài đốt nến cầu xin. Tiếng đồn Đức Mẹ Abồ linh thiêng vang xa, bởi nhiều người đã nhận được ơn. Bởi thế, tượng đài hương khói nghi ngút. Sáng sớm, lái xe tới công sở, giáo dân dừng lại một bước chân, ghé vào đốt nến, đọc một lời kinh. Chiều, tan sở, người người ghé vào, lại đốt nến cầu xin. Ban ngày có người Abồ, đôi tay chắp lại đầu cúi xuống. Chiều tối du khách lời kinh râm ran một góc nhà thờ. Thông thường, tượng đài chỉ vắng bóng người sau khi ông đóng cửa nhà thờ lúc 8 giờ tối. Vào giây phút đó, chính ông cũng đã nhiều lần đốt nến, quỳ xuống đọc những lời kinh cho mẹ ông và người thân. Hoặc vào những lúc bối rối, tượng đài là nơi ông ghé vào. Ông quỳ đó, đầu cúi xuống, suy nghĩ và cầu nguyện…

Cũng bởi tượng đài linh thiêng, đã rất nhiều lần ông mở cửa văn phòng, chỉ đế tiếp đón những người khách hoàn toàn lạ mặt. Nói chuyện được mấy câu, ông mới biết họ người Sydney, Melbourne, và cả từ khắp nơi trên thế giới. Qua một lần dừng lại nghỉ ngơi tại phố Abồ, nghe đồn tượng đài linh thiêng, Công Giáo cũng như không Công Giáo, họ đến trước tượng đài, đốt nến cầu nguyện với Đức Mẹ Abồ. Ơn trời tuôn đổ, người hiếm muộn, về tới nhà, tự nhiên thụ thai, sinh con, mà lại sinh đôi, một trai một gái đề huề. Ông nhớ, trưa hôm đó, người triệu phú Hong Kong một thời hiếm muộn vừa khóc vừa nói lời cám ơn Đức Mẹ, tay đưa ra hộp quà nho nhỏ nói, xin phép, kính tặng nhà thờ. Ông để món quà trên ghế, rồi cũng quên đi. Mấy ngày sau, thằng Quasimodo vô tình nhìn thấy. Nó cầm lấy, gõ cửa đưa cho ông. Ông hờ hững mờ ra coi. Cả ông và thằng Quasimodo khi đó mới giật mình nhận ra đồng hồ Longines nhận hạt kim cương hột to, mười hai con số dạ quang sáng lấp lánh!?

Cứ thế, giữ chùa ăn oản, ông sở hữu bao nhiêu hàng hiệu nổi tiếng của du khách từ khắp năm châu ghé vào tạ ơn Đức Mẹ và nhà thờ. Tuần một lần, lái xe vô buôn làng người Abồ công tác, ông mang theo quần áo hàng hiệu chia đều. Người Abồ ghé vào nhà thờ gặp ông xưng tội, ông dẫn tới tủ của hội bác ái Vinnies, lấy đồ ra tặng. Tùy trường hợp, có khi đôi giầy Kenneth Cole, khi cái áo CK.

Làm cha xứ nhà thờ Abồ, hai điều khiến ông hằn sâu vết nhăn là tệ nạn đánh bạc và hiện tượng ăn sương của phố nhỏ. Sòng bài nổi tiếng giữa phố, lúc nào cũng dập dìu giáo dân của ông, đông nhất người Phi Luật Tân, kế tiếp dân Abồ. Làm được bao nhiêu tiền, con chiên của ông ghé vào sòng bài, nướng hết! Có những lần nhận được bản tin, biết là dễ bị mang tiếng thị phi, nhưng ông liều, đi thẳng tới khu kéo máy, năn nỉ giáo dân của ông đứng lên, đổi tiền, đi về nhà. Nể mặt cha xứ, nhiều người ngần ngại bỏ đi. Mà thiệt tình, không về cũng không được với ông, bởi ông cứ đứng đó, nói tới nói lui. Đánh bạc mà có người đứng cạnh lải nhải như ma âm phủ, dù có đang là vận đỏ cũng hóa đen thui! Thua là cái chắc!

Nhưng ông lỳ, có người còn lỳ hơn ông! Gia đình người này, năm mặt con thơ. Nhưng khổ! Tiền lương, hai vợ chồng nướng sạch! Năn nỉ hoài, không được! Ông đứng bên cạnh máy kéo, lôi ra tràng hạt đọc kinh Mân Côi. Ông to tiếng cầu nguyện với Đức Mẹ Abồ. Không biết tại Đức Mẹ Abồ linh thiêng hay bởi ông lỳ lợm, hai vợ chồng nhà này đứng dậy, bỏ đi thẳng một mạch. Từ ngày hôm đó, họ không ghé vào sòng bạc nữa. Ai nói gì thì nói, ông, ông tin Đức Mẹ Abồ đã hoán đổi tâm hồn đôi vợ chồng.

Riêng cái vụ ăn sương! Chuyện là như thế này… Abồ là phố du lịch. Thiên hạ từ khắp nơi trên thế giới nườm nượp đổ về phố nghỉ qua đêm, sáng hôm sau lái xe thêm năm tiếng nữa thăm viếng hòn đá Uluru hoàng hôn đổi màu rực rỡ. Du khách năm châu kéo về, tình hình kinh tế phố Abồ vững vàng như kiềng ba chân. Nhà hàng năm sao, khách sạn mười tầng, văn phòng du lịch dựng cao bảng hiệu phục vụ túi tiền du khách. Nhưng kỹ nghệ du lịch cũng dẫn tới kỹ nghệ ăn sương. Nhiều người phụ nữ, sau một đêm trắng tay với sòng bạc, liều lĩnh bán mình cho khách du lịch. Tối thứ Ba nhà hàng Paradise là nơi khách ghé vào chọn lựa hàng hóa: Úc Châu tóc vàng, Abồ ngăm ngăm, đủ cả, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu. Tiền trao ra, cháo múc liền! Tú bà tú ông cứ thế ngồi đếm tiền mỏi tay!

Làm cha cụ, thấy cảnh cờ bạc sa cơ lỡ bước dẫn tới cùng đường liều lĩnh của giáo dân, chẳng lẽ ông nhắm mắt làm lơ? Mai này trước tòa Chúa, ông biết ăn nói ra sao. Một lần nữa, cực chẳng đã, tối thứ Ba, ông lại phải ghé vào nhà hàng rảo mắt trông chừng, dù biết có nhiều ánh mắt chăm chú theo dõi, những đôi môi thì thào khi thấy ông tự động kéo ghế ngồi chung bàn với những người phụ nữ, cũng chính là giáo dân của ông…

— Hi, Linda…

— Wow! Father! What a surprise!… What’re you doing here?

— What am I doing here? Well, I just want to have dinner.

Cứ thế.

Ông chép miệng, ông không vào địa ngục, ai sẽ vào? Đã có mấy lần, ông kịp thời xuất hiện khuyên răn người phụ nữ dừng bước trước khi lún sâu vào trong vũng bùn.

Tú bà tú ông giận lắm! Bởi ông hốt đi gần hết những miếng mồi thơm. Còn lại được mấy mạng, nhăn nheo tóp tép, chẳng ma nào nhòm! Bởi thế, có lần nửa đêm về sáng, chuông điện thoại trong phòng ngủ reo inh ỏi. Ông lồm cồm ngồi dậy, tưởng nhà thương gọi xức dầu. Nhưng không, đầu giây bên kia giọng nghèn nghẹt như người lấy hai ngón tay kẹp lỗ mũi. Hăm dọa nổi lên,

— Còn léo hánh tới Paradise phá đám, ông cắt…cho mày chừa… Lúc đó đừng trách không báo trước…

Bởi ông lì đòn, tình hình giáo xứ mấy năm nay đã tạm yên. Giáo dân bớt đi hoang… Ngày Chúa Nhật cuối tuần người người tấp nập kéo về thánh đường tham dự thánh lễ sốt sắng. Sòng bạc giữa phố vắng teo, ế như chùa Bà Đanh!

Mặc dù biết cờ bạc là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều tệ đoan xã hội, nhưng từ bao nhiêu lâu nay chính quyền Abồ vẫn không làm chi được. Nay thấy ông cha xứ thành công dẹp tiệm sòng bài, giải tán băng đảng ăn sương, nhiều lần chính quyền Northern Territory và phố Abồ ghé vào nhà xứ kín đáo nói cám ơn.

Chỉ riêng có cái vụ thằng Quasimodo, cha xứ nhà thờ Abồ lắc đầu, vẫn là mối bận tâm lớn, ông chưa biết giải quyết ra sao. Nó càng lớn, tóc càng đen, khuôn mặt Á Châu càng rõ nét, ông lại càng ngong ngóng chờ… Càng chờ, ông càng băn khuăn, tối tối ông hay quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ Abồ...

Ông nhớ chiều hôm đó, Sở Di Trú từ Darwin ghé vào văn phòng nhà xứ. Qua câu chuyện, ông mới biết hiện tượng thuyền nhân Việt Nam, tưởng đã chấm dứt từ lâu, nhưng không. Nhân viên Sở Di Trú lần đó nhờ ông bay lên trạm cấm tỵ nạn Darwin làm thông dịch viên cho một gia đình Việt Nam. Thuyền gỗ nhổ neo, lênh đênh mặt biển hơn hai tuần lễ. Cuối cùng bị cảnh sát biên phòng Úc Châu chặn bắt ngoài khơi. Gia đình gồm hai vợ chồng, và mấy người con. Ông chồng đánh cá, một thời sống ở thành phố, tướng người lanh lợi, mặt mũi sáng sủa, dẻo miệng, trong khi đó cô vợ nhu mì hiền lành, người thấp nhỏ. Về sau ông mới biết, sau một lần vụng trộm, gia đình đằng gái phải vừa gả vừa dúi vào tay ông con rể đào hoa mấy lạng vàng cho xong chuyện. Nhận lời mời của Sở Di Trú, cha xứ Abồ bay lên Darwin, ghé trại cấm, thường xuyên thăm viếng. Khi cả gia đình được nhận tái định cứ tại Úc, cũng chính Sở Di Trú mở miệng nhờ ông ký giấy bảo lãnh. Ông nhận lời, mang cả gia đình tỵ nạn về phố Abồ…

Người chồng làm Bõ coi sóc nhà thờ, đốt nến, đóng cửa. Được hơn một năm, gia đình ông Bõ rời phố Abồ, dọn nhà về Springvales, phố Melbourne. Giáo dân ngạc nhiên nhận ra cùng thời gian đó, người bếp gốc Abồ, tự nhiên biến mất. Nhiều người hỏi, nhưng cha xứ nhà thờ Abồ yên lặng hoặc lơ lơ lãng sang chuyện khác…

Đã gần mười lăm năm nay…

Ông cha xứ ngước nhìn qua khung cửa sổ. Trời chiều mùa hè chạng vạng, nhọ nhem mặt người. Ông nhìn đồng hồ treo tường, gần chín giờ tối. Ông đứng dậy, đầu óc vẫn còn rối bời. Liếc nhìn qua khung cửa, ông nhận ra mặc dù hai cánh cửa sắt nhà thờ đã khóa chặt, một vài bóng dáng giáo dân quen thuộc còn đang chờn vờn đi tới đi lui trên sân nhà thờ. Từ chiều tới giờ, chuông điện thoại liên tục reo vang, nhưng ông quyết định không trả lời.

Ông thắc mắc không hiểu ai là tác giả câu chuyện lạ. Có thể sòng bài Paradise kiếm cách phá ông. Một lần ông nhận được bưu kiện, tưởng chi, mở ra, bên trong nguyên cây thánh giá bằng gỗ, bị bẻ gẫy đôi! Ông biết họ muốn nói gì. Rồi cũng chính sòng bài nhiều lần tung tin đồn ông lăng nhăng. Có lần họ trả tiền giáo dân viết thư lên Tòa Giám Mục tố ông thậm thụt tiền nhà thờ đi đánh bài và bao gái. Nhưng nếu sòng bài muốn triệt hạ ông, tại sao họ lại dựng lên hiện tượng thánh nữ đồng trinh khóc chảy máu?

Bước ra khỏi cửa phòng, ông nhìn mùa hè còn rơi rớt trên sân vườn nhà xứ những tia nắng thoi thóp. Ông quyết định bước thẳng tới cánh cửa bên hông nhà thờ. Tay vặn chià khóa, ông đẩy cánh cửa gỗ sang một bên. Ông nhìn cung thánh, tay làm dấu, rồi quay sang hướng tay phải. Tượng thánh nữ đồng trinh vẫn đứng đó, im lìm. Ông bước tới, chăm chú nhìn lên khuôn mặt Đức Mẹ Abồ. Máu đỏ của con mắt trái to tròn đã khô. Ông nhìn xuống dưới chân tượng, những hạt máu đỏ khô vẫn còn đó. Ông cúi xuống thấp, ngửi ngửi… Đúng mùi máu! Ông lại ngước lên nhìn. Khuôn mặt thánh thiện Đức Mẹ Abồ vẫn hướng lên cao… Ông ngước lên nhìn theo. Ông nhận ra phía trên là căn gác lửng, nơi ca đoàn tập hát và hát lễ Chúa Nhật. Ông bước từng bước chậm lên thang gỗ ọp ẹp dẫn lên gác… Trên gác đàn, lờ mờ trong bóng đêm đen, ông nhận ra vẫn là những hàng ghế gỗ lặng lẽ im lìm. Ông đã quay lui, tính bước xuống…

…Nhưng bóng người sau cây đàn dương cầm bất ngờ lù lù đứng dậy! Ông giật mình, nghẹt thở, trái tim co lại như bị người bóp chặt. Tay che miệng, ông ú ớ, muốn hét to…

— Chúa tôi!

Bóng đen vội vàng cúi đầu,

— Con chào cha…

Trong bóng đêm mờ mờ của căn gác, khuôn mặt người đàn ông dần dần hiện ra…

— Con, con là ông Bõ… Cha quên con rồi sao?

Ông trợn mắt nhìn… Hơi thở cha xứ nhà thờ Abồ bỗng dưng nặng nề, dồn dập, như người lên cơn suyễn,

— …Thì ra là anh…

Ông Bõ năm xưa chỉ vào bắp chân, thì thào,

— Con vượt trại tù, bị cảnh sát bắn. Tới được nhà thờ, con trốn lên gác ca đoàn. Lúc lết lên bực thang, máu từ vết thương nhỏ rớt xuống… Con xin lỗi!!!

Ông thở hắt ra, hai tay ôm ngực! Hóa ra là vậy! Ông yên lặng nhìn người đối diện, chậm rãi điều hòa lại hơi thở… Trong bóng đêm, ông đã nhận ra ông Bõ năm xưa, giờ này đầu cạo nhẵn bóng, áo tù màu xanh lờ mờ con số và tên họ, AS 201 Nguyen… Người đàn ông cúi đầu, hít sâu, ngần ngại nói,

— Con buôn hàng “trắng”! Ra tòa, phạt tù chung thân. Con bị giam hơn mười năm rồi. Tháng trước, họ chuyển con lên đây…

Bóng đen nhìn ông, mắt long lanh,

— Con xin lỗi cha. Con biết con có lỗi!!!

Người đàn ông hít sâu vào buồng ngực,

— Cháu, cháu, chắc nó lớn lắm rồi...

Ông cha xứ vẫn đứng đó, yên lặng, nhưng lần này ông thở mạnh, hơi thở hắt ra! Ông nghe được tiếng trái tim đập dồn dập... Ác mộng năm xưa nay lại về, mang theo nguyên vẹn hình dáng! Đây chính là người đã từng làm ông mang tiếng hơn mười lăm năm nay. Hôm đó ông không hiểu tại sao ông Bõ tự dưng gõ cửa xin phép dọn đi. Gần một tháng sau, ông thấy cô bếp có nhiều triệu chứng lạ. Ói mửa lung tung! Lại hay ợ chua! Người thân ghé tai ông nói nhỏ, “Cô ấy có bầu”. Nhận được bản tin, ông tưởng sét đánh ngang tai! Ông là cha xứ, giờ tự nhiên người bếp độc thân có thai. Làm sao ông ăn nói với giáo dân! Không còn chọn lựa nào khác, ông đành phải dứt lòng cho người bếp nghỉ việc. Hai năm sau, cô ta quay về lại phố Abồ. Trước khi chết, cô trối lại thằng Quasimodo cho ông… Tiếng đồn thằng bé con ông bay tới tai bề trên. Ông bị gọi vào, khiển trách, không ý tứ, để nhà thờ mang tiếng! Ông không nói chi, yên lặng ngậm bồ hòn đắng nghét trái tim! Ông biết, khi thiên hạ có thành kiến, có nói gì cũng thế! Ông để thời gian trả lời; nhưng sâu thẳm trong lòng, ông cảm thấy như bị người thân đâm lén một nhát sau lưng, vết thương chí mạng!

Ông đã tới địa chỉ tại Springvales, nhưng hàng xóm nói người đàn ông đã dọn nhà… Thế là ông trở thành bố thằng Quasimodo.

Những lần nghe thiên hạ xì xào, ông giận muốn nghẹt thở! Mặt ông nóng bừng. Ông tự trách mình vớ vẩn, dễ tin, giờ rước họa! Chỉ được một cái Quasimodo lớn nhanh mà lại ngoan, không lêu bêu đầu đường xó chợ, sáng chiều giật chuông nhà thờ, chăm chỉ giúp lễ. Quasimodo, đứng trên cung thánh giúp lễ, hai tay chắp lại nhìn thánh thiện như thiên thần. Nó hay nói lớn lên con sẽ đi tu làm cha nhà thờ. Nghe nó nói như vậy, ông cũng tạm nguôi ngoai, cảm thấy được an ủi.

Nhìn ông Bõ năm xưa mở miệng xin lỗi, khuôn mặt thành khẩn, cha xứ nhà thờ Abồ hít vào thật sâu, thở ra nhè nhẹ… Cơn giận âm ỉ trong lòng bao nhiêu lâu nay chầm chậm bốc hơi, tan loãng! Ông bỗng dưng thấy cả một cõi lòng nhẹ tênh, thanh thản. Những vết nhăn trên trán dãn ra khi nhớ tới thằng Quasimodo, ông nói chầm chậm,

— Nó lớn tướng rồi. Ngoan lắm…

Nhìn sâu vào khuôn mặt người đối diện, ông nửa đùa nửa thật,

— Càng lớn càng giống bố như hai giọt nước!

Lần đầu tiên từ lúc bất ngờ hội ngộ trên gác đàn, người tù nhân toét miệng cười, nụ cười thằng Quasimodo được thừa hưởng,

— Thật hả cha…

Tiếng pháo giao thừa bất chợt nổ vang… Giờ này đã nửa đêm. Tiệm Tàu dưới phố đốt pháo đón Xuân…

Ông cha xứ đưa tay ra nắm bàn tay ông Bõ năm xưa,

— Thôi, đi vô nhà bếp, bóc bánh chưng ăn mừng năm mới!

Người tù bước đi nhanh nhanh, mặc cho vết thương bắp chân còn đang ri rỉ máu. Ông lắp bắp, vừa nói vừa hỏi,

— Vâng, vâng! Nhưng xin cha cho con nhìn mặt thằng bé trước. Nó, nó tên gì vậy hả cha?

Alice Springs, NT, Australia
www.nguyentrungtay.webs.com

Thương tặng các em ở mái ấm Nhật Hồng

“Mẹ cho em đôi mắt màu đen
để thương, để nhớ, để ghen, để hờn
đôi mắt em là cửa sổ tâm hồn…”

Có một bài hát đã bắt đầu như thế. Vâng, đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, nhưng phải chăng khi không còn đôi mắt thì thế giới tâm hồn của người ta cũng bị khép lại ? Phải chăng những khiếm khuyết trên cơ thể cũng để lại những khuyết tật nơi tâm hồn?


Tôi đến ngôi trường khiếm thị này với tâm niệm mình là người “tôi tớ làm chứng về lòng thương xót của Chúa”. Dầu chỉ mới có vài ngày ngắn ngủi, tôi thấy mình đã bị đánh động, bị chất vấn và day dứt thật nhiều.

Ngày đầu tiên, tôi nhìn thấy cái trớ trêu của cuộc đời hiện rõ trên khuôn mặt các em. Tại sao bên trên những nụ cười hồn nhiên như thiên thần lại là những ánh mắt thất thần vô cảm, những hốc mắt đỏ lòm sâu hoắm hay những đôi mi kèm nhèm luôn khép kín?.. Cảnh đời của các em dẫn tôi đi vào cái éo le ngang trái, và thậm chí là bạc bẽo của cuộc đời. Đâu là cơ hội và chân trời hy vọng cho cuộc đời của các em ?

Có một lần cùng các em tiếp phái đoàn đến thăm và cho quà, một lời động viên vô tình làm tôi cảm thấy ngột ngạt và nhoi nhói đau như chính mình bị xúc phạm : “chúng con ráng học giỏi để khỏi trở thành gánh nặng cho xã hội…”. Phải thừa nhận rằng điều ấy đúng, nhưng sao phũ phàng quá ! Phải chăng bằng những danh từ hoa mỹ như : khuyết tật, khiếm thị, kém may mắn… chúng ta đã vô tình giản lược các em vào cái thế giới “bậc hai”, bản chất vốn là những của nợ, những gánh nặng …? Cái tâm thức vô tâm ấy có góp phần tạo nên lớp vỏ bọc tự ti, mặc cảm và khép kín nơi các em không?

Một lần tôi nhận được lời tâm sự bằng thơ, những vần thơ vụng về đến buồn cười, nhưng lại thực và bi đát đến không ngờ !
“…Đau đớn nào thay
là sự bất hạnh
từ nay đến mãi
sống trong bóng tối…”
“…nỗi buồn của con
chẳng ai nào biết…”

Đứng trước nỗi đau của các em tôi thấy mình bất lực. Tôi không thể là người bù đắp – lấy gì bù đắp được những mất mát của các em chứ ! – tôi chỉ là người đến để xin được cùng san sẻ nỗi đau.

Đi vào thế giới tâm hồn của các em là đi trên Đất Thánh. Đó là “Đất Thánh” của những bí mật, những khắc khoải, những mặc cảm tự ti, những vết thương lòng không thể nguôi ngoai… khi ấy, làm sao chúng ta lại có thể đánh giá các em một cách giản lược, máy móc được chứ ! Các em vẫn là những con người bình thường, đầy đủ và trọn vẹn như bao nhiêu người khác, dù thiếu đôi mắt!

Những giờ đồng hành cầu nguyện với các em mỗi ngày trước Thánh Thể, tôi có cơ hội để học nhiều điều. Tâm hồn tôi đã không ngừng rung động trước những lời cầu nguyện chân tình và quảng đại biết bao khi chứng kiến các em có thể vượt ra khỏi nỗi bất hạnh của riêng mình để cầu nguyện cho nhiều người khác: “Lạy Chúa, hôm nay đi học về con nghe thấy tiếng xe cứu thương. Con không biết trong xe là ai, nhưng con nghĩ chắc họ đau lắm ! Xin Chúa thương gìn người bị bệnh để họ được bình phục và gia đình họ không đau khổ”… “Lạy Chúa, con cầu nguyện cho các bạn nhỏ như con phải làm lụng vất vả, phải lang thang suốt ngày ngoài đường để đi bán vé số, đi đánh giày kiếm sống”… “Lạy Chúa, con xin lỗi Chúa vì ngày nay con làm biếng học quá, có biết bao nhiêu bạn nhỏ mơ ước có điều kiện học hành được như con mà không được, còn con có điều kiện, được các sơ các Thầy dạy dỗ yêu thương mà con lại làm biếng không chịu nghe lời. Xin Chúa cho con mỗi ngày một ngoan ngoãn hơn”….

Được sống với các em, được chứng kiến các em săn sóc cho nhau, tôi mới thấm thía thế nào là yêu thương san sẻ. Một em mù dùng bàn tay sờ soạng tìm miệng của một em bé khác để đút cơm cho, hình ảnh ấy tầm thường nhưng sao lại đẹp lạ lùng ! Tình thương được san sẻ tạo nên nét đẹp, nhưng đẹp tuyệt diệu hơn nữa là tình thương của những em kém may mắn dành cho những em kém may mắn hơn. Những gì các em trao ban có giá trị như những đồng xu của bà góa nghèo dâng cúng cho Đền Thờ (Mc 12, 41-44; Lc 21, 1-4). Còn tôi, phải chăng tôi đang lấy ra để tặng ban từ cái kho tàng dư dật của mình?

Các em mời gọi tôi nhìn lại mình để thấy đôi mắt, nói riêng, và cả con người tôi, nói chung, là một quà tặng quý giá biết bao! Thế mà tôi đã vô tâm phung phung phí quà tặng ấy cách không ngờ. Tại sao người chịu thiệt thòi không phải là tôi mà là các em chứ ? Nếu có cơ hội để chia sẻ cho các em những may mắn của mình, và san sẻ với những mất mát của các em, liệu tôi có dám không?

Cám ơn các em yêu quý đã dạy tôi những bài học đắt giá, đã bắt tôi phải không ngừng tự vấn lương tâm mình và trở về với thâm sâu cõi lòng mình để nhận ra Chúa đã yêu tôi và dành cho tôi biết bao là ưu tiên, dù tôi hoàn toàn không xứng đáng.

Cám ơn những tấm lòng quảng đại, hào hiệp đã sẵn sàng dang rộng vòng tay chào đón, ôm ấp và yêu thương các em, dẫn các em về để tạo nên một mái ấm đầy tình người, tình Chúa.

Nguyện xin Chúa mãi là nguồn an ủi, chở che, và luôn là người bạn đồng hành cùng các em giữa những lầm than vất vưởng. Xin dẫn các em ra khỏi bóng tối của cuộc đời để trở về với Chúa là ánh quang, là nguồn sáng muôn đời.

CŨNG PHẢI CHO KHÔNG!

“Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. (Mt: 10, 8)



Có lắm khi kiệt sức giữa miền đau
Con cầu cứu trong quãng không thinh lặng
Từng chặng đường Thánh giá đi qua
Con nhận ra Người, chính là Người đang kề vai vác đỡ


Có những khi con lỡ lầm lỗi tội
Tâm hồn con lở lói vết sân si
Là những khi con mắc bệnh phung cùi
Chúa đã chạm vào con, làm cho con nên sạch

Có đôi khi giữa thanh thiên bạch nhật
Bọn ma quỷ nhập vào hồn, chúng xúi giục con
Khiến con như một kẻ tham lam tàn độc
Chúa vẫn một lòng thương xót, chữa lành con

Trong tăm tối, Chúa đã nâng con dậy
Từ vực sâu của cõi lòng đã chết
Con bước ra khỏi kiếp sống mù lòa
Nay hồn con chan hòa tia nắng mới

Chúa ơi, chính Chúa đã cho con tất cả
Con đã được cho không, thì con cũng phải cho không
Con biết thế và cũng sẽ làm như thế
Xin Người luôn ở với con trong mỗi bước hành trình!

9/12/2017
Ngòi bút nhỏ

“Mẹ ơi, cha Quân sẽ tổ chức sinh nhật cho con!” Con bé nhún nhảy và la thật to như thể mới nhặt được một cục vàng quý giá. Mẹ nó lắc đầu nguầy nguậy: “Ôi ôi, không được đâu. Cha đừng chiều nó.” Rồi bà đuổi con bé đi ra ngoài.

Hình minh họa


Tôi ở nhà của đôi vợ chồng trẻ ba con người Phi Luật Tân này đã gần một tuần. Chồng bà làm thợ sửa xe ngay ngã tư bên đường, còn bản thân người vợ thì chạy sô đi giặt quần áo thuê cho những ai cần. Mỗi chiều bà trở về trong khuôn mặt nhợt nhạt vì mệt và đói. Bà dang rộng cánh tay vốn bị toét nhoẹt bởi xà phòng pha thuốc tẩy mạnh ôm chặt con bé út vào lòng.

Cực là thế nhưng họ chỉ kiếm được trên dưới hai đôla một ngày và bởi đó, mỗi bữa họ chỉ có một dĩa cơm trắng cỡ trung cho cả nhà và một đĩa cá kho mặn tanh khủng khiếp. Hôm nào sang lắm thì cả nhà chia nhau vài quả trứng luộc dầm nước mắm hay một chút rau cải xào xuông với tỏi. Năm con người cộng với một vị khách từ phương xa chia nhau những thìa cơm đạm bạc ít đến mức ăn xong chẳng biết đã có gì vào bụng chưa. Cái cồn cào cứ theo đuổi suốt ngày và ngay cả khi bữa cơm vừa dứt.

Thiếu ăn triên miên nên người của ba đứa nhóc đang tuổi ăn tuổi mặc cứ cọc lại như những con búp bê nho nhỏ. Con bé út đã lên 5 nhưng nhìn giống như một đứa bé 2 tuổi. Thằng giữa 11 nhưng mặt non như đứa lên 6. Thằng cu lớn nhất đã 14 nhưng mang trên mình thân xác của đứa trẻ lên 10. Khuôn mặt của nó hằn lên một sự chịu đựng cái đằng đẵng của kiếp nghèo. Đã bao lâu rồi đôi mắt nó chưa biết cười là gì.

Cách đây hai hôm, con bé út nhe hàm răng sún và chiếc má lúm đồng tiền thật đáng yêu; nó chăm chú nhìn tôi hồi lâu rồi trịnh trọng tuyên bố: “Tuần tới con sẽ được 6 tuổi. Cha phải làm lễ cầu nguyện cho con ăn no chóng lớn đấy nhé!” Tôi gật đầu nhè nhẹ nhưng tránh nhìn vào đôi mắt trong veo của nó. Bởi lòng tôi trùng lại với ý tưởng: “Con no và lớn sao được với lưng chén cơm thiếu dinh dưỡng mỗi ngày hả bé?” Rồi con bé thao thao bất tuyệt nói về khao khát muốn lớn mau để đi giúp mẹ giặt quần áo kiếm tiền. Mắt mình chợt cay xè như có ai xông hương tận mặt. Tuổi thơ của con đâu rồi công chúa ơi?

Hít một hơi thật sâu để xua đi nỗi buồn mang mác. Tôi xoa đầu nó và nói: “Thôi, con để cái vụ giặt quần áo phụ mẹ sang một bên. Bây giờ công chúa của cha muốn gì trong ngày sinh nhật của mình nè? Bé có muốn làm tiệc sinh nhật không?” Con bé ngước mắt nhìn tôi nghi ngờ hỏi: “Bộ cha là triệu phú hả? Chỉ có triệu phú mới có sinh nhật thôi.” Tôi dí tay mình vào trán nó trả lời: “Hì…. Hì…. Thì hôm nay con và cha làm triệu phú trong mơ được không?” “Okay, vậy thì con muốn làm một bữa tiệc thật to cho cả nhà. Mọi người sẽ ăn no đến không thở nổi. Con sẽ làm món Pancit bihon (một món miến xào lòng thập cẩm), nấu một nồi cơm thật đầy, một thố súp khoai tây rõ lớn, chiên một đĩa gà rán Kentucky khổng lồ, mua một thùng kem sô-cô-la bự, làm một khay chuối chiên to, và nhất là một cái bánh sinh nhật nữa.” Thằng giữa ngồi đó phì cười: “Mơ hay nhỉ?” Còn thằng lớn quay đi chùi vội nước mắt.

Tôi làm ra vẻ giận dỗi trợn mắt lên bảo nó: “Sao con biết những món đó? À, con dấu cha, dấu bố mẹ và hai anh đi ăn một mình nhá. Không chia cho ai miếng nào buồn quá đi.” Con bé cười như nắc nẻ đáp: “Con ăn tất cả những món đó qua tivi của bà M. đầu xóm đó. Cha và cả nhà có ăn không, tối nay mình đi?” Một phút thinh lặng bao phủ không gian. Thằng lớn lắc đầu như muốn xua đi cái buồn của gia mình. Thằng giữa vân vê hai bàn tay vào nhau. Ánh mắt của nó lộ lên vẻ bối rối thấy rõ. Còn cô công chúa nhảy tót vào lòng tôi ngồi khóc ngon lành.

“Không, mình sẽ không mơ nữa. Cha sẽ khiến cho giấc mơ của con thành sự thật. Tuần sau, chúng ta sẽ làm sinh nhật cho con, sẽ nấu và mua những món con vừa kể.” Nó ngưng bặt tiếng nấc nhìn tôi dò hỏi. Và khi cảm nhận được sự cương quyết trên khuôn mặt của tôi, nó nhảy lên reo hò. Mẹ nó hốt hoảng xua nó đi ra ngoài.

Tôi gọi bà ra, đưa bà 5000 peso (khoảng 120 đôla) rồi dặn: “Tuần sau, chúng ta hãy tổ chức sinh nhật cho cháu, làm những gì cháu ước mong nhá.” “Đừng chiều nó. Cha nên giữ số tiền này lại. Cha sẽ cần nó trong những ngày cha ở đất nước của con. 5000 peso không phải là chuyện đùa đâu cha ạ. Hai vợ chồng con chỉ kiếm được trên dưới 70 peso mỗi ngày thôi. Chúng ta không nên hoang phí cho những bữa tiệc của người giàu như thế.” Giọng nói chị tuy dứt khoát, nhưng đôi bàn tay của chị run rẩy và ánh mắt chị ngân ngấn nước mắt.

Nói cho công bình, tôi cũng nghĩ rằng việc tổ chức một bữa tiệc có giá trị bằng 70 ngày lương là một sự phí phạm không thể tha thứ. Đưa hai vợ chồng một số tiền ấy để làm vốn thì hữu ích hơn. Và đó cũng là dự định của tôi ngay từ đầu. Nhưng bớt đi 120 đôla từ số tiền dự định cho họ cũng là điều nên làm. Bởi suy cho cùng, chẳng biết đến bao giờ những con người này mới có một bữa tiệc đúng nghĩa. Và khi cái nghèo theo họ về bên kia thế giới, thì hình như kỷ niệm về một bữa sinh nhật nhớ đời sẽ là một kỷ niệm vui giữa những hỗn mang của muôn vàn nỗi buồn.

Tôi chia xẻ suy nghĩ của mình cho đôi vợ chồng trẻ, rồi nói: “Cha muốn con bé có một sinh nhật để đời anh chị hiểu không? Biết đâu đó là bữa tiệc duy nhất mà nó có?” Hai vợ chồng hết nhìn nhau rồi lại nhìn tôi. Sau cùng họ gật đầu và ôm nhau khóc…

Mùi thum thủm mãn tính của khu ổ chuột bị đẩy lùi và được thay thế bằng mùi thơm của miến xào và thịt gà rán. Bọn trẻ con hàng xóm túm năm túm ba ngoài khung cửa nhìn vào thèm khát. Chúng luôn miệng bảo nhau là con bé H. quá may mắn và sẽ thành người giàu trong tương lai. Bà mẹ trẻ nghe những lời bàn của lũ nhóc mà miệng cứ méo xệch.

Khi mọi sự đã chín, bà lấy những đĩa giấy xúc miến, gà, cơm, súp, bánh sinh nhật, và cả kem nữa. Rồi… bà bắt đầu phân phát cho trẻ con xung quanh. Nồi cơm vơi đi thật nhanh và những món khác cũng thế. Đến giờ ăn, năm con người và một vị khách bất đắc dĩ cũng chỉ chia nhau những gì còn lại. Có khác chăng là hôm nay mọi thứ xem ra được nhân đôi và mọi người no hơn một tý.

Con bé út và thằng giữa vui ra mặt và huyên thuyên nhiều điều. Con thằng lớn chẳng nói chi nhưng miệng cứ tủm tỉm cười, một nụ cười hiếm hoi trên khuôn mặt già trước tuổi. Nhìn nó ngậm thật lâu miếng xương gà làm tôi thoáng bực mình. Tôi biết nó còn đói và bởi thế quay ra bảo chị: “Tôi chẳng cấm chị chia xẻ cho mấy bé hàng xóm. Nhưng chị cũng nên nghĩ đến con của mình một chút chứ. Suy cho cùng, tôi muốn công chúa của chúng ta có một sinh nhật để đời và các con chị có một bữa ăn tạm gọi là no. Chị cho đi tùm lum thì cũng như không có rồi còn gì.” Chị run run trả lời: “Con xin lỗi, cho con xin lỗi… Con đã làm hỏng kế hoạch của cha…” Rồi chị nấc lên: “Nhưng cha ơi, cháu đã có một sinh nhật tuyệt vời. Vì từ bây giờ đến mãi về sau, nó sẽ không quên được một điều là đã có một lần trong đời, nó đã mở một bữa tiệc và đãi được cả xóm vốn đói khổ triền miên này.”

Mắt tôi chợt nhòe đi và tai tôi ù lại. Cả nhà đứng dậy ôm chầm lấy nhau. Tất cả chúng tôi cùng khóc. Khóc cho cái nghèo của họ, cho cái tâm chưa rộng đủ của tôi, cho cái tình mênh mang của chị, cho nụ cười vui của cô út, và cái mỉm chi của hai đứa lớn. “Cho cha xin lỗi. Tim cha quá nhỏ và bởi đó cha trở nên thật vô tình và vô cảm. Cha đã nói những điều không nên nói. Cầu nguyện cho cha luôn, để cha có thể có một trái tim bao la như trái tim của anh chị vậy.”

Con bé út phá tan bầu khí nặng nề bằng tiếng hét: “Ôi kem chảy hết rồi, ta uống kem đi thôi!” Chúng tôi chuyền tay nhau uống kem sô-cô-la một cách ngon lành. Những tiếng cười rộ lên xóa tan màn đêm lặng lẽ. Bài hát chúc mừng sinh nhật được cất lên khi con bé thổi 6 ngọn nến cỏn con cắm trên miếng bánh bé tẻo còn sót lại. Không gian trở nên thật linh thánh và ấm cúng. Bức hình “Chúa Giêsu Cười” mà đôi vợ chồng treo ở cửa chợt đẹp một cách lạ thường…



Melissa | CC BY ND 2.0 | Public Domain


Ông phát minh ra hệ thống chữ nổi bằng chính công cụ đã lấy đi đôi mắt của ông

Mọi người đều biết Beethoven, nhà soạn nhạc cổ điển Công giáo bị điếc. Nhưng bạn có biết rằng nhà phát minh ra hệ thống chữ nổi cũng là một nhà soạn nhạc xuất sắc và một người Công giáo nhiệt thành? Nheo mắt nhìn thật gần, cậu bé ấn cái dùi xuống quá mạnh và nó trượt khỏi miếng da, đâm vào mắt của cậu.

Không có cách gì chữa được, và cậu bé chịu đau đớn kinh khủng vì mắt của cậu bị nhiễm trùng. Nhiễm trùng lan sang mắt còn lại. Lên năm tuổi cậu bé mù hoàn toàn. “Tại sao lúc nào cũng tối đen vậy?” cậu bé liên tục hỏi cha mẹ, cậu không hiểu rằng cậu sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy được.

Cha của cậu làm cho cậu một cái gậy và dạy cậu cách đi lại một mình. Các thầy cô giáo và linh mục trong vùng Coupvray rất ấn tượng với sự chín chắn và tính kiên trì của Braille, họ giới thiệu cậu thiếu niên Braille 13 tuổi vào Trường Thiếu niên Khiếm thị Hoàng gia, một trong những trường đầu tiên cho người mù trên toàn thế giới. Trường được thành lập bởi Valentin Haüy, một nhà hảo tâm không bị mù.

Học sinh được học đọc với hệ thống chữ nổi được Haüy sáng tạo. Tuy nhiên, quy trình làm sách là một công việc vô cùng vất vả, và ban đầu khi trường được thành lập chỉ có ba quyển sách. Trẻ em cũng không thể viết bằng hệ thống chữ này. Cha của Braille làm cho cậu một bộ chữ cái bằng da dày, để cậu có thể viết thư về nhà bằng cách đồ lại theo các ký tự.

Lên 12 tuổi, Braille được học một hệ thống giao tiếp bằng các dấu chấm nổi và gạch ngang in nổi trên giấy, được phát minh bởi Đại úy Charles Barbier cho binh sĩ truyền thông tin vào ban đêm mà không phải nói hay dùng ánh sáng. Quân đội đã bỏ hệ thống này vì nó quá phức tạp.

Trong suốt ba năm trường, Braille làm việc cần mẫn để phát triển một hệ thống tương tự và đơn giản hơn cho người mù, bằng một cái dùi, một công cụ đã làm mù đôi mắt của cậu. Cậu nói, “Tiếp cận được với sự giao tiếp theo ý nghĩa rộng lớn nhất là tiếp cận với kiến thức, và điều này vô cùng quan trọng cho chúng tôi nếu chúng tôi [người khiếm thị] muốn không tiếp tục bị khinh thường hoặc quá lệ thuộc vào những người sáng mắt. Chúng tôi không cần sự thương hại, chúng tôi cũng không cần được nhắc nhở rằng chúng tôi là những người dễ bị tổn thương. Chúng tôi phải được đối xử bình đẳng – và giao tiếp là một con đường có thể mang đến điều này.”

Cuối cùng, sau một số lần sửa đổi, Braille đã tạo ra được một bộ chữ cái cho người mù khoảng năm cậu lên 15 tuổi. Cậu công bố hệ thống đó 5 năm sau, mở rộng nó bằng cách thêm vào những biểu tượng hình học và nốt nhạc. Braille vô cùng say mê âm nhạc, là một tay vĩ cầm và organ tài năng. Cậu là người chơi organ giáo đường tại Nhà thờ Thánh Nicolas-des-Champs ở Paris từ năm 1834 đến 1839, và sau đó là Nhà thờ Thánh Vinh sơn de Paul. Braille được mời chơi organ cho các nhà thờ trên khắp nước Pháp.

Bộ chữ cái dành cho người mù do Braille phát minh


Khi Braille hoàn tất các môn học, cậu được mời ở lại làm trợ giảng. Cậu được bổ nhiệm làm giáo sư năm 24 tuổi. Braille dạy lịch sử, hình học và đại số tại trường trong hầu suốt cuộc đời.

Tuy nhiên hệ thống chữ viết của Braille không được chấp nhận tại trường. Những người kế nhiệm của Haüy căm thù với phát minh này và sa thải hiệu trưởng là Tiến sĩ Alexandre François-René Pignier vì ông có một quyển sách lịch sử được chuyển sang hệ thống chữ braille.

Braille chết vì bệnh lao năm 43 tuổi. Hai năm sau khi qua đời, hệ thống của ông cuối cùng được Trường chấp nhận do sự khăng khăng yêu cầu của học sinh. Nó được sử dụng rộng rãi trong khắp thế giới nói tiếng Pháp.

Hội nghị Liên Âu đầu tiên cho giáo viên dạy người khiếm thị được tổ chức năm 1873. Bác sĩ mù người Anh, Tiến sĩ Thomas Rhodes Armitage bảo vệ cho hệ thống chữ braille này tại hội nghị, và nó bắt đầu phát triển và phổ biến trên khắp thế giới. Giám đốc Trường người Khiếm thị California, Tiến sĩ Richard Slating French nói: “Nó mang dấu ấn của một thiên tài, cũng giống như hệ thống mẫu tự Roma.”

Bây giờ, gần hai thế kỷ trôi qua từ khi Louis Braille bắt đầu kết hợp các dấu chấm, hệ thống chữ braille vẫn còn là một công cụ quan trọng để giao tiếp. Nó được tìm thấy trên các nút bấm thang máy và các biển hiệu nơi công cộng. Braille thậm chí đã mở ra cho nó con đường đi vào công nghệ vi tính, với thư điện tử RoboBraille và mã Nemeth Braille Code cho toán học.

T.S. Eliot viết: “Có lẽ vinh dự bền lâu nhất để ghi công trạng của Louis Braille là vinh dự chúng ta trao cho ông bằng cách đặt tên của ông cho hệ thống chữ viết do chính ông phát minh – và, ở đất nước này [Anh], chấp nhận cách phát âm tên của ông trong ngôn ngữ của chúng ta. Chúng ta tôn vinh Braille khi chúng ta nói đến hệ thống chữ braille. Tôn vinh ông bằng cách này là cách tôn vinh bền lâu nhất hơn bất kỳ cách tôn vinh những người nổi tiếng khác.”

Khi bạn nhìn thấy một dấu hiệu của chữ braille, hãy đọc một kinh cầu nguyện cho con người đã sáng tạo ra nó, biến một thảm kịch của tuổi thơ thành một sự phúc lành cho hàng triệu con người “luôn chìm trong cảnh tối tăm.” Nguyện xin ánh sáng bất diệt luôn chiếu tỏa trên Louis Braille.

[Nguồn: aleteia]


Được tạo bởi Blogger.