(Mã số VVYT 17-007)
Tôi sinh ra ở miền quê nghèo. Nơi có những cánh đồng bằng phẳng, xen giữa nhấp nhô núi đồi. Gia đình tôi có năm người, cuộc sống quanh năm trông chờ vào những vụ ngô lúa hoa màu từ vài ba sào ruộng nho nhỏ ông bà ngoại chia cho canh tác.
Ở nơi đó có ngôi Nhà Thờ giáo họ nằm giữa trung tâm của làng với kiến trúc Pháp thuộc, từ vòm cung thánh cho đến tháp chuông. Ngôi thánh đường ấy đã đi qua bao năm tháng chiến tranh tàn khốc, đôi ba lần bom đạn rung giật hư hại mất nhiều phần. Nơi ấy, chúng tôi đã từng có một tuổi thơ rất đẹp, tuổi thơ với những buổi tối nguyện kinh nơi Nhà Thờ. Nhớ nhất là những mùa dâng hoa, dâng hạt. Cả đám luôn háo hức với những tâm tình, lời nguyện dù có khi bằng tuổi ấy chắc gì chúng tôi đã hiểu thấu hết được ý nghĩa của những lời kinh.
Từ nhỏ tôi đã được mẹ dạy cho cách làm dấu. Làm dấu khi bước vào Nhà Thờ, ngôi nhà của Chúa, làm dấu trước những bữa ăn.“Đó như một lời chào, lời cảm ơn dành cho Chúa, cũng là cách để bày tỏ đức tin của người Công giáo chúng ta”- mẹ thường bảo với anh em chúng tôi như vậy.
Nhớ lúc mẹ cầm đôi bàn tay bé xíu, chậm rãi tập cho chúng tôi những dấu chỉ đầu tiên trong cuộc đời. Nhờ ba mẹ khéo chèo lái, nhờ những ngày tháng siêng năng nguyện cầu, cuộc sống gia đình tôi cứ thế êm trôi trong sự dắt dìu của tình thương và hồng ân bao la từ Thiên Chúa.
Rồi chúng tôi cũng lớn lên sau những mùa lúa gặt. Nghe tiếng khói đốt đồng ngun ngút cháy giữa mùa rơm khô nắng thơm lừng. Tâm hồn tôi sẽ còn lưu giữ mãi những ký ức đẹp về làng quê yên bình, thấm đẫm tình người một thuở nuôi dưỡng chúng tôi trưởng thành.
Tôi chọn thành phố làm nơi lập nghiệp. Ba mẹ chẳng phản đối điều gì, chỉ là những câu dặn dò chúng tôi phải biết tự lo cho bản thân, siêng năng cầu nguyện và tín thác vào Chúa, để Ngài nâng đỡ, soi sáng cho chúng tôi khỏi những cám dỗ cuộc đời.
Vậy mà trong chính những xô bồ và bon chen ấy, có khi chúng tôi như những con thiêu thân, lao vào guồng quay của tiền – tài – danh – vọng của mưu sinh đời thường. Công việc mệt mỏi, cộng với những chán chường, niềm tin vào Chúa bỗng dưng trở thành điều gì đó xa vời mà chúng tôi chẳng buồn tìm kiếm.
Những bữa ăn thiếu vắng những bàn tay làm dấu, bày tỏ sự cám ơn dành cho Cha trên trời. Không phải chúng tôi quên, mà vì chúng tôi ngại, nơi những bàn tròn với biết bao đồng nghiệp ngoại đạo, chúng tôi thấy những dấu thánh trở nên lạc quẻ và bơ vơ.
Để rồi sau những bon chen, nhộn nhịp, đôi chân trần chạm đất của chúng tôi đã bao lần vấp ngã tưởng như chẳng thể nào đứng lên.
Chính những lúc ấy, lời dặn dò của ba mẹ bỗng từ đầu ùa về, chới với trong tiềm thức. Để khi tỉnh lại, chúng tôi vội vàng chạy đến với Chúa bằng bao thống hối ăn năn, chỉ mong một lần được Ngài cạnh bên nâng đỡ. Rồi chúng tôi đứng dậy, tự nhủ mình phải tuyên xưng Chúa nhiều hơn nữa bằng cách làm dấu “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” như mẹ đã từng dạy thuở ngày còn bé
.