Thánh giá và Hoa hồng
Thánh giá và Hoa hồng

Thánh giá và Hoa hồng
Một đặc trưng kỳ lạ!
Thánh giá, sự cao cả
Nhưng đau khổ tột cùng
Thánh giá, niềm cậy trông

Cho những ai sầu khổ
Thánh giá, nguồn cứu độ
Cho những ai tín thành
Thánh giá thật mong manh
Đối với ai thất vọng
Thánh giá, nguồn hy vọng
Cho những ai kêu cầu
Thánh giá là hoa hồng
Đối với “người nhỏ bé”
Đó là Têrêsa


Với tình mến thiết tha
Bởi Thánh giá mà ra
Đã được thiêu đốt hết
Như gai của hoa hồng
Phải thua tình của nó
Sự nhiệm mầu “bé nhỏ”
Màu hoa thật tươi đỏ
Như Máu Chúa chảy ra
Tưới xuống thật chan hòa
Cho thế nhân nhận lãnh
Tình hồng luôn cháy bỏng
Bởi khát vọng yêu thương
Dù gai nhọn châm vào
Tình Chúa vẫn tuôn trào
Là tình yêu “thắm đỏ”
Đó là tình bất tử
Chị đã cảm nhận đủ
Thánh giá và hoa hồng
Một tình yêu kỳ lạ
Kính nhớ Tê-rê-sa
Là nhớ Thánh giá Chúa
Có hoa hồng nơi đó
Một đặc trưng diệu kỳ
Chưa tin cứ thử đi
Sự nhiệm mầu cao cả./.

Mong thay!
(Nhờ lời cầu bàu của thánh nữ xin thương đến những con người đang gặp hoạn nạn)

(01/10/2013)
P. Trần Đình Phan Tiến



[Viết cho năm Mục Vụ Gia Đình
gửi các bạn trẻ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân]




Ta yêu nhau bằng tình yêu trong sáng
Như ngàn sao lấp lánh giữa khung trời
Như vầng trăng vằng vặc giữa đêm soi
Như bình minh ánh mặt trời rực rỡ


Ta yêu nhau như đóa sen chớm nở
Chẳng nhuốm bùn muôn thuở tỏa thơm hương
Tình trinh nguyên trong ánh sáng Thiên Đường
Không nhuốm bụi, không nhơ vương dục vọng

Ta yêu nhau dưới khung trời lồng lộng
Dệt ước mơ trong biển rộng trăng sao
Cùng người yêu tình thương mến dạt dào
Giữ tâm hồn thanh cao không tỳ vết

Dzuy sơn Tuyền


(*): Tựa đề do người biên tập đặt (TTT)

Một nét đặc biệt làm nên sự đa dạng trong thi hứng Hàn Mạc Tử là nguồn thơ của đạo, về tôn giáo. Nếu Nguyễn Trọng Trí là một tín đồ Thiên Chúa, thì Hàn Mạc Tử là một thi nhân. Vị tín đồ, con chiên ngoan đạo và chàng thi sĩ họ Hàn lại là một. Với nhà thơ thì sáng tạo nghệ thuật, thiên chức nghệ sĩ là tối cao, duy nhất. Hàn Mạc Tử không thể không kết hợp giữa yêu cầu về đức tin, tín ngưỡng của tôn giáo với những đòi hỏi không thể cưỡng lại của sự sáng tạo. Trong một chừng mực nào đó, sự cám dỗ của một Hàn Mạc Tử nhà thơ đã lấn át một Nguyễn Trọng Trí tín đồ. Thơ tôn giáo ra đời với Hàn Mạc Tử, như quan niệm của thi sĩ: “Tôi dung hòa cả hai thể văn chương tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chỉ là muốn làm giàu cho nền văn chương chung”[1].

Trong ý thức về con người cá nhân, coi trọng sự sống và cái chết, trong sự bủa vây, đe dọa của tử thần, trong sự truy đuổi gấp gáp của thời gian, đâu là cơ hội sau cùng của nhà thơ, đâu là sự cứu rỗi cho số kiếp hữu hạn, phải chăng đó là niềm tin vào một Đấng:
Tôi van lơn thầm nguyện Chúa Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng
Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng
(Đêm xuân cầu nguyện)

Nhưng với tư cách là một nghệ sĩ, Hàn Mạc Tử không giới hạn đề tài trong một phạm vi sáng tạo, kể cả khi nói về Đạo. Hàn Mạc Tử “trong khi ôm một lý tưởng thơ, đi tìm cảm hứng đã gặp đạo và tìm được đạo trong nhiều đề tài, nhiều thanh sắc, tư tưởng để làm giàu cho thơ mình”[2]. Tôn giáo trong thơ Hàn Mạc Tử là những gì thanh khiết, thiêng liêng đã được lãng mạn, thi vị hóa mất dần đi vẻ trang nghiêm tuyệt đối của tín điều, kinh điển:
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước
Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn reo trong hồn trong mạch máu!
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng
Lòng vua chúa cũng như lòng lê thứ
Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu chuộng mẹ sầu bi.
(Thánh nữ Đồng trinh Maria)
Nỗi đau trong tâm hồn nhà thơ được băng bó, xoa dịu
Nỗi đau trong tâm hồn nhà thơ được băng bó, xoa dịu
Hàn Mạc Tử sống trong nguồn đạo cũng là sống trong nguồn thơ. Lúc này nỗi đau trong tâm hồn nhà thơ được băng bó, xoa dịu. Nhiều bài thơ với ý tưởng thanh khiết, thánh thiện ra đời: Điềm lạ, Nguồn thơm, Xuân đầu tiên, Đêm xuân cầu nguyện, tập hợp trong hai tập Xuân như ýThượng thanh khí:
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm
Mà ta ngỡ đấng tiên tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng phúc âm
Tứ thời xuân! Tứ thời xuân non nước!
Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang
Thiên hạ bình, và trời tuôn ơn phước
Như triều thiên vờn lượn khắp không gian.
(Nguồn thơm)
Những bài thơ xuân của Hàn Mạc Tử như bay cao siêu thoát nhờ tư duy tôn giáo của nhà thơ, đưa thơ ông vào một cõi riêng, khác lạ với thơ xuân của các thi sĩ cùng thời. Trong khi thơ xuân của Nguyễn Bính rất người, gắn với cuộc trần thế, thường nhật thì thơ xuân Hàn Mạc Tử như có cánh, lúc nào cũng ở tư thế bay lên, vượt thoát (Bay giang hồ, thơ bay, hồn tôi bay, lòng bay xa, vỗ cánh bay) đến với vũ trụ trinh nguyên tự thuở ban đầu:
Thuở ấy càn khôn mới dựng nên
Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên
Người thơ phong vận như thơ ấy
Nào đã ra đời ngọc biết tên
(Xuân đầu tiên)
Dù thơ Hàn Mạc Tử có tỏ lòng mộ đạo, sùng kính với Chúa, với Thánh nữ Maria, cũng không thể gọi ông là nhà thơ tôn giáo. Theo Quách Tấn:
“Tử là một nhà thơ đi vào vườn hoa tôn giáo chỉ để tìm hương phấn về ướp cùng hương thơ đó mà thôi. Bởi vậy không thể gọi Hàn Mạc Tử là nhà thơ tôn giáo. Tử là một nhà thơ thuần túy”[3]. Đối với một con người mà cuộc đời là một chuỗi những đau thương bất hạnh như Hàn Mạc Tử thì thơ bao giờ cũng là cứu cánh:

Tôi là kẻ đi đường gió lạnh
Không mong gì hơn kêu gọi tấm lòng thơ.
(Say thơ)

Bích Thu
(Trích từ bài Hàn Mạc Tử, một hiện tượng độc đáo của thi ca Việt Nam thế kỷ XX, PCĐ-2, trang 528-542)

Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 222-224.



[1] Quách Tấn, Đôi nét về Hàn Mạc Tử, in trong Hàn Mạc Tử hôm qua và hôm nay. NXB Hội Nhà văn, H,1995.
[2] Phan Xuân Sanh, dẫn theo Hàn Mạc Tử- Phê bình và tưởng niệm. Sđd.
[3] In trong Hàn Mạc Tử hôm qua và hôm nay. Sđd.

(Ga 14,15-21)

Đã yêu người rồi, thì chiều ý người thôi
Em nào dám trái lời người dạy bảo
Bởi em biết mối tình người tuyệt hảo
Cả trần gian có dễ kiếm được đâu

Làm vui lòng, làm toại ý cho nhau
Tình yêu bỗng nên nhiệm màu kỳ diệu
Muốn hiểu cho ra, mà không sao thấu hiểu
Chỉ biết là mình không thể thiếu nhau

Như có sợi thần linh cõi thâm sâu
Cứ trói buộc bể dâu cùng thượng giới
Xác phàm hay chết cùng sự sống mới
Sợi thần linh có tên gọi “Tình Yêu”

Hèn chi,
tưởng ở với nhau chẳng được bao nhiêu
Hóa ra
còn mãi mãi muôn chiều đời thơm ngát
Rồi có một ngày tình yêu là cực lạc
Nơi Đồng Xanh mát bởi Nguồn Suối Tình Yêu

Chiều ý Người thôi, em mãi yêu chiều
Cho em giữ Lời Người Yêu dạy bảo…


ả giang hồ


Tiếng thét của nàng vang lên giữa những âm thanh ồn ào, xôn xao của một góc xóm lao động nghèo. Lũ trẻ nhếch nhác đứng lơ ngơ nhìn mẹ chúng gục xuống khóc nức nở, chẳng chịu để cho ai dỗ dành. Mà dỗ dành làm thế nào được khi người ta báo tin chồng nàng vừa qua đời tại bệnh viện. Cái nắng hanh hao trưa hè đổ xuống gay gắt trên nhưng gương mặt đỏ ửng, vì nắng, vì nóng, vì những giọt nước mắt rơi không ngưng nghỉ thương tiếc một con người hiền lành, nhân hậu vừa từ giã thế gian để về cùng Chúa.



Ở xóm lao động nghèo này, ai mà chẳng quý chồng nàng - một người nông dân chân chất, thật thà, sống có tình có nghĩa với làng trên xóm dưới, thuận thảo với gia đình hai bên, lại còn là ông thư ký trong ban hành giáo, là một giáo lý viên tận tâm với các em thiếu nhi. Hai người ở với nhau được năm mặt con, cuộc sống cũng chật vật, khó khăn nhưng ngôi nhà gỗ đơn sơ, nghèo nàn ấy chưa bao giờ ngớt tiếng cười và những niềm vui. Tối tối, hàng xóm lại nhìn thấy cả gia đình nàng quây quần bên bàn thờ Chúa, những lời kinh trầm bổng vang lên giữa thăng trầm của cuộc sống, của những lo toan của kiếp người. Những người ngoại đạo xung quanh, dù không tin vào Chúa, cũng cảm nhận được phần nào cái không khí đầm ấm, êm đềm và thánh thiện nơi gia đình này.
Âm thanh vui tươi, trong trẻo của bản giao hưởng buổi bình minh cuộc sống tưởng chừng như kéo dài bất tận bỗng từ đâu chen vào một nốt nhạc trầm buồn kéo theo sau là cả một khung trời ngập ngụa đau thương. Người ta đưa xác chồng nàng về trên một chiếc xe trắng toát, lạnh tanh. Người ra, kẻ vào viếng xác; lời kinh tiễn biệt vang lên giữa ngày hè oi bức, không khí xung quanh ngột ngạt quá đỗi – như chính cái ngột ngạt trong lòng nàng.
…Chồng nàng không con nữa…
Cha xứ đến thăm, nàng không khỏi nức nở:
- Cha ơi, cha dạy con phải tin tưởng, phó thác vào Chúa nhưng cha bảo con phải tin tưởng thế nào đây? Chúa đã cất chồng con về với Ngài, để lại năm đứa con thơ, đứa đau ốm, đứa bệnh tật, nợ nần thì chồng chất? Con phải tin Thiên Chúa quan phòng thế nào hả cha?

Câu hỏi của nàng vang lên làm ai cũng bận tâm suy nghĩ, ôi, mầu nhiệm của sự đau khổ mới khó hiểu làm sao. Dẫu biết rằng Chúa vẫn ở cùng ta trên con thuyền mà sao khi sóng biển thét gào, lòng ta không khỏi dấy lên nỗi sợ hãi mơ hồ cùng những băn khoăn lo lắng. Có gì khác giữa những người phụ nữ đau đớn khóc thương người chồng ra đi? Có người xem đó như một nỗi bất hạnh lớn lao, là dấu chấm hết của tháng ngày hạnh phúc và họ để cuộc đời mình bị nhấn chìm trong đau khổ. Có những người, dẫu chẳng mấy dễ dàng, biết đón nhận biến cố xảy đến như Thánh ý Chúa trong đời, và gửi trao nơi Chúa một niềm phó thác. Nơi những tâm hồn ấy, có hạnh phúc, có đau thương, có vẻ đẹp lộng lẫy lẫn những đổ vỡ; có thành công và có thất bại, có mỏi mệt chán chường nhưng cũng có cả… NIỀM HI VỌNG.

Ở một góc nhỏ trong vũ trụ bao la, nắng hè vẫn chói chang, oi bức như muốn thiêu rụi từng cành cây, ngọn cỏ; tiếng kinh cầu vẫn vang lên giữa trưa trời. Bỗng đâu một cơn gió mát lành ùa đến, thổi vi vu trong những tâm hồn …dám mở ngỏ cho sự thánh thiêng bước vào.

Song Ân
nguồn: http://anbui.blogspot.it


Á thánh Anrê Phú Yên
Á thánh Anrê Phú Yên


Đất Phú Yên có núi cao biển rộng

Có anh hùng tuổi trẻ sớm lừng danh

Anrê Phú Yên quả ngọt giống lành

Thơm đất mẹ, thơm khắp trời Âu Á.



Anrê, tên một vị tông đồ cả

Được tiểu anh hùng hết dạ kính tôn

Chọn làm cha, làm thầy dạy linh hồn

Để suốt đời sống theo gương Bổn mạng.



Phú yên, quê hương tình lai láng

Tiểu anh hùng đón nhận gởi thân danh

Từ tuổi thơ đến tuổi trưởng thành

Tên quê mẹ khắc sâu vào tim óc.


Anrê Phú Yên từ nay là bảo ngọc,

Là tấm gương chói rạng khắp trần gian,

Gương hy sinh, gương trí dũng song toàn,

Gương chí khí đã nên trang tuấn kiệt.


Hỡi Anrê, hỡi chàng trai đất Việt

Bạn là ai mà Giáo Hội tôn vinh?

Bạn là ai mà thiên hạ hoan nghênh,

Cho dựng tượng, cho hoạ hình kính nhớ?


Phải chăng:

Bạn là hoa của mùa xuân muôn thuở

Không bao giờ tàn úa dưới trời sương

Là nén hương thơm quý của muôn hương

Trước nhan Chúa muôn đời không tàn lụn

Là cây nến với thân hình bé mọn

Lần đầu tiên trên đất Việt thân yêu

Được thắp lên và cháy mãi không tiêu

Hơn ba trăm năm âm thầm như cổ mộ

Hôm nay được đặt trên bàn thờ lễ giỗ

Cháy bùng lên ánh sáng thật huy hoàng

Cháy bùng lên thành ngọn đuốc vinh quang

Cả thế giới khắp nơi đều hoan hỷ.


Hỡi Anrê, bạn đúng là chiến sĩ,

Là người trời đã sinh xuống trần gian

Để rao danh Giêsu khắp vũ hoàn

Qua tia máu bắn ra từ cổ họng

Khi miệng lưỡi hết kêu tên cực trọng

Khi lý hình đã chặt chiếc đầu rơi

Danh thánh Giêsu vẫn phát thành lời

Từ quả tim đang sục sôi lửa mến.

Quả tim ấy cũng chính là ngọn nến

Soi sáng cả cuộc đời Anrê Phú Yên

Và biến chàng thành một giáo lý viên

Nêu gương cho giới thiếu niên vạn đại.


Tác giả Nguyễn Xuân Văn, Lm
Lm Antôn (sao lục 24/7/2015)

Giáo lý viên giáo phận Xuân Lộc
Giáo lý viên giáo phận Xuân Lộc




(Mã số VVYT 17-065)


Tháng năm về với ngàn hoa
Trăm Năm Kỷ Niệm (1), hát ca vui mừng
Nơi nơi nô nức tưng bừng
Đón chào kính Mẹ, lẫy lừng trời hoa !

Niềm vui đến với mọi nhà
Noi gương Đức Mẹ, thuận hòa yêu thương
Khổ đau, vất vả coi thường
Để cùng xây đắp trên đường tiến xa.

Người người yêu mến chan hòa
Niệm tâm cùng hướng Co va (2) ngày nào
Nữ Vương rực sáng trên cao
Dưới ba trẻ nhỏ xôn xao đón mừng

Tay nâng chuỗi ngọc Mân Côi
Cùng hoa năm sắc kính dâng Mẹ lành
Là như muôn tấm lòng thành
Chung lời ca tụng thánh danh Nữ Trinh

Hồng hồng ngọn nến lung linh
Quyện hương thơm ngát hòa kinh nhịp nhàng
Vui tươi ngây ngất, chứa chan
Du dương dòng nhạc âm vang tuyệt vời

Ước thầm là cánh chim trời
Con bay đến tận núi đồi tích xưa
Mong tìm bóng Mẹ ban trưa (3)
FA TI MA – Suối Nguồn Ơn Bình An.

Ngày 29 tháng 05 năm 2017

1. Năm 2017 là năm mà Giáo Hội mừng kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, nước Bồ Đào Nha
( 1917 – 2017)

2-3. Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên với ba trẻ chăn cừu : Lucia, Phanxicô và Giacinta vào trưa ngày 13/5/1917 tại ngọn đồi Cova de Iria ở một giáo xứ nông thôn Fatima thuộc nước Bồ Đào Nha.

Đức Mẹ thăm viếng bà Elisabeth
Đức Mẹ thăm viếng bà Elisabeth


– Ôi chao, thân gái dặm trường
Một mình Em lại lên đường tới đây
Vui Chị Em được sum vầy
Hàn huyên tâm sự thỏa ngày vắng nhau
Thế nhưng Chị thấy phiền nhiều
Vì Em vất vả vượt đèo đường xa!
– Ôi chao, Chị chớ có lo
Em đi có Chúa cùng đi dọc đường
Dẫu mình ên suốt dặm trường
Nhưng Em đâu có đơn phương đâu mà
Em cầu nguyện dọc đường đi
Lời kinh đưa lối, đường xa hóa gần
– Tạ ơn Chúa, cảm ơn Em
Gioan bé nhỏ nhảy lên đây nè!
Phúc thay Mẹ Chúa nhân từ
Đến đây thăm viếng Chị già này đây!
– Chị ơi, đừng khách sáo hoài!
Em là Em của Chị đây thôi mà
Cảm tạ Thiên Chúa nhân từ
Làm cho Em sự diệu kỳ, Chị ơi!

TRẦM THIÊN THU
Lễ Thăm Viếng, 31-5-2017



Mã số: 16-080
Micae Trần Văn Hiển, 1994, Gp Vinh
(Giải khích lệ VVĐT 2016)   
  

Cũng đã gần 5 năm rồi, Hoan dần lãng quên nó lúc nào không hay biết, Hoan để kỉ niệm đó ở tận sâu trong ngăn kéo cuối cùng của chiếc tủ để quần áo. Mấy ngày gần đây, công ty của anh muốn xem những thứ giấy tờ đầy đủ về anh để đợt này công ty muốn cho anh và 2 người nữa đi sang Mỹ nâng cao tay nghề, họ đã nhìn thấy cách làm việc và những cống hiến của anh cho công ty. Họ cho anh và 2 người kia được nghỉ một ngày để chuẩn bị giấy tờ rồi tuần tới đem đến cho họ.
Hôm nay, anh moi hết ngăn kéo này đến ngăn kéo nọ, và đến ngăn kéo cuối cùng anh chợt nhớ ra kỉ niệm. Lúc đầu anh cũng không muốn mở ra đâu, vì nó chỉ khiến anh tiếc xót một thời mà thôi; nhưng phân vân một lúc thì Hoan cũng quyết định mở nó ra, thời gian trôi qua cũng khá lâu rồi nên anh cũng không có lý do gì mà lại không dám đối diện. “Quá khứ nào dù đau buồn đến đâu, nếu ta càng lẩn tránh thì đau khổ chỉ đến với ta mà thôi, tại sao ta không biết học cách chấp nhận và xem nó như là ý Chúa để hoàn thành mục đích của Người”, với lại con đường anh đang bước đi hiện giờ cũng giúp anh tồn tại trong cuộc sống này. Và rồi anh cũng mở ngăn kéo ra và cầm nó lên, nó được để trong một chiếc phong bì còn mới cứng và được bọc bởi một chiếc bọc nilon. Anh mở nó ra và đọc, bao kí ức dạt dào lùa về trong anh.
Ngày ấy, Hoan là một chàng thanh niên điển trai, học giỏi, là con một trong một gia đình gia giáo, bao niềm hy vọng về một Linh mục tương lai mà ba mẹ gửi gắm nơi Hoan, và anh cũng cảm nhận điều đó Chúa đang thực hiện trên cuộc đời anh. Anh đã dự thi vào dòng Tên và được lọt vào top 3 người cao điểm nhất, ba mẹ rất đỗi tự hào và hãnh diện về anh. Cuộc đời anh từ khi sinh ra cho đến lúc bước vào dòng toàn màu hồng đẹp tươi, mỗi bước anh đi đều hạnh phúc, Hoan nhìn cuộc đời bằng lăng kính màu hồng và Hoan nghĩ cũng chẳng bao giờ anh bước chân lên con đường đau khổ, vì anh được sinh ra để bước đi trên con đường trải đầy hoa thơm, cỏ dại. Ngày Hoan chuẩn bị nhập dòng, anh từ giã mẹ - một người mẹ hy sinh cả đời để anh được hạnh phúc:
- Con đi làm thánh mẹ nhé ! Mẹ ở nhà giữ gìn sức khỏe, cố gắng ăn uống điều độ, khi nào mà nhớ con thì cứ bảo ba chở mẹ đến nhà dòng mẹ nhé. Nhất định con sẽ làm Linh mục để đem Chúa đến cho người khác mẹ ạ !
- Nếu con tự hào thì hãy tự hào trong Chúa luôn con nhé. Đừng cậy dựa vào thế gian, nó chóng qua lắm. Hãy cậy dựa vào Chúa và chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình con nghen !
- Con sẽ sống hạnh phúc để cả mẹ và ba được tự hào về con. Con đi làm thánh trong dòng tu thì mẹ và ba cũng phải làm thánh giữa đời mẹ nhé !
Hoan quay sang ba, thay vì nói anh ôm ba thật chặt vào lòng.
- Đây mới chỉ là bước khởi đầu của cuộc đời con. Chông gai và khó khăn từ bây giờ mới thực sự đến với con, con trai ba ạ ! Ba và mẹ phó thác cuộc đời con trong tay Chúa để Chúa định liệu theo ý Ngài muốn. Từ đây Chúa sẽ là người chính thức dạy dỗ con, hãy ký thác cuộc đời mình trong tay Chúa con nhé !
Để đáp lại lời ba, Hoan ghì ba thật chặt vào lòng. Ba hiểu nỗi lòng của anh nên anh cũng không muốn nói gì thêm. Thật vậy, con người ta một khi trái tim đã gần nhau thì không cần nói người ta cũng hiểu thấu và hiểu rõ những nhu cầu của nhau.
Con đường đầy hoa thơm, cỏ dại đang ngày một vun vén thêm những cánh hồng, những giọt sương mai trên cuộc đời anh. Kể từ khi vào dòng, anh chẳng bao giờ nghĩ đến đau khổ mà anh sẽ phải trải qua, mọi việc cứ thế êm xuôi theo chiều hướng Hoan muốn. Hoan luôn là 1 trong 3 người được xếp thứ hạng cao nhất trong lớp của anh, mọi người ai cũng yêu thương và nâng đỡ anh, hơn thế nữa anh còn được cha Giám đốc Học viện lấy làm gương sáng cho anh em các lớp trong Học viện. Hoan đang đê mê giữa một cuộc sống đầy hương thơm và ánh sáng. Nhưng đó không phải là một cuộc sống hạnh phúc đích thực, cuộc sống chỉ thực sự hạnh phúc khi phải nếm mùi khó khăn, gian khổ.
Những tháng ngày linh thao của khóa anh cũng gần đến, sau khóa linh thao này, cha Giám đốc cùng một số cha trong Học viện sẽ quyết định ai là người hợp với ơn gọi dòng Tên và ai sẽ là người không hợp. Mấy ngày trước lúc lên đường đi tĩnh tâm, cha Giám đốc học viện có đến lớp của Hoan và dặn dò:
- Các em thân mến, đây là thời gian thích hợp và là lúc thuận tiện để các em cầu nguyện và thưa chuyện với Chúa về ơn gọi của các em. Các em hãy nhìn lại quá trình các em sống trong nhà dòng, xem lại mối tương quan với Chúa và với tha nhân, để qua các mối tương quan đó soi rọi xem mình có thực sự thích hợp với cuộc sống đời tu hay không? Đời tu đòi hỏi một đời sống cầu nguyện liên lỉ, một sự từ bỏ dứt khoát và một sự dấn thân trọn vẹn.
- Sau kỳ tĩnh tâm, các em sẽ viết bài cảm nhận về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời các em, sau đó mỗi người sẽ chia sẻ bài cảm nhận đó trong buổi chia sẻ khi đi tĩnh tâm về. Đó là tất cả những gì anh muốn nói với các em. Chúc các em gặt hái được nhiều hoa trái tốt lành.
Một tháng tĩnh tâm dần trôi qua nhưng đã có 2 người ra đi tìm kiếm đời sống khác giữa đường đời. Và rồi những ngày tĩnh tâm cũng đã xong, bài cảm nhận Hoan cũng đã hoàn thành một cách theo như ý Hoan muốn. Anh rất hồi hộp về bài chia sẻ này, vì đây là cơ hội giúp anh lần đầu tiên thể hiện khả năng của mình giữa các anh em trong toàn Học viện, và cũng là cơ hội để anh thổ lộ tình cảm thực sự của anh đối với nhà dòng.
Ngày chia sẻ những cảm nghiệm gần đến, Hoan được cha Giám tỉnh mời lên tiếp chuyện. Cũng không biết chuyện gì xảy ra với anh, cả anh và mọi người cùng lớp đều nghĩ vì anh suất sắc và đạo đức từ khi vào dòng cho đến nay, nên chuyện anh được lấy ra làm gương sáng cho Học viện chắc là điều đương nhiên. Nhưng đường lối của Thiên Chúa luôn đi ngược lại ý muốn của người đời.
- Chào con ! Con có phải là Giuse Trần Hữu Hoan không?
- Thưa cha, vâng ạ. Con là Giuse Trần Hữu Hoan.
- Cha đã nghe rất nhiều điều về con từ cha Giám đốc Học viện cũng như một số cha khác đã dạy con. Cha rất ấn tượng với thành tích học tập mà con có được trong suốt quá trình học tại nhà dòng. Thế kỳ tĩnh tâm vừa rồi con cảm thấy thế nào?
- Thưa cha Giám tỉnh, con không giỏi đến nỗi được ưu ái vậy đâu ạ, chắc lẽ do may mắn(cười). Kỳ tĩnh tâm vừa rồi con cũng thấy mình thực sự được thuộc trọn về Chúa.
- Thế con đã chọn Chúa làm gia nghiệp, con có dám chấp nhận mọi gian khổ trong niềm vui của Đức Kitô không con?
- Thưa cha Giám tỉnh, con xin phó thác.
- Sau quá trình con học tập và hoạt động tại nhà dòng, cha với các cha trực tiếp dạy dỗ con đã ngồi lại với nhau rất nhiều ngày để xem xét về mọi vấn đề, đặc biệt là ơn gọi của con và một số anh em khác đối với dòng Tên. Các cha cũng đã suy nghĩ rất nhiều khi phải đưa ra quyết định này, nhưng có lẽ đây là Chúa định liệu cho bước đường của con. Cha và các cha thực sự thấy con không thích hợp với ơn gọi của dòng Tên, thế con nghĩ sao?
- Cha Giám tỉnh có thể nói lại được không ạ?!
- Con thực sự không thích hợp với ơn gọi của dòng Tên, con có suy nghĩ gì không?
Lúc đó mọi sự như đổ vỡ dưới chân Hoan, anh lặng người khi nghe những lời đó từ miệng cha Giám tỉnh. “Các cha đã nói mình không thích hợp với nhà dòng, chẳng lẽ mình cứ ù lì ở đây sao?!”. Chỉ còn vài tháng nữa anh chính thức được nhận vào dòng Tên qua việc tuyên xưng lời khấn: “vâng phục, khiết tinh, khó nghèo”, thế mà giờ đây mọi thứ như sụp đổ hết, bao hy vọng giờ đây toàn là thất vọng. Tai anh ù lên, tay run lẩy bẩy, miệng mở ra không nổi:
- Vậy...vậy, thưa cha Giám tỉnh, con xin phép được rời nhà dòng để tìm kiếm thánh ý Chúa trên cuộc đời con.
- Cha biết quyết định này hơi bất ngờ đối với con, nhưng hãy ký thác đời mình cho Thiên Chúa con nhé. Ngài sẽ hướng dẫn con và Ngài sẽ không bao giờ bỏ con đâu. Chúc con đi vạn an. Khi nào cần con cứ đến nhà dòng lúc nào con muốn, bởi vì chúng ta đều là anh em cùng một Cha.
- Vậy, thưa cha Giám tỉnh cho phép con lưu lại vài ngày để sắp dọn đồ đạc và thu xếp những công việc dở dang con đang làm ạ.
- Khi nào con đi, con cứ báo cho cha Giám đốc Học viện con nhé.
- Chào cha Giám tỉnh con xin phép về phòng.
- Thế chúc con đi bình an.
Vừa ra khỏi phòng, anh òa khóc nức nở. Sao nhà dòng lại đối xử với anh như vậy? Anh vừa khóc, vừa chạy một mạch về phòng. Anh đóng cửa phòng lại và nước mắt cứ chực trào tuôn. Mọi người trong Học viện bàn tán xôn xao, không hiểu chuyện gì đang xảy ra đối với anh. Khóc được một lúc lâu, anh bắt đầu thu dọn đồ đạc một cách cuống cuồng, anh cầm quần áo trong tủ ra nhưng rồi anh lại thả hết xuống đất và ngồi thu mình trong góc rồi khóc tiếp. Tại sao lại bất công với con thế Chúa ơi? Con đã làm gì sai hay không phải chăng? Con không có cơ hội để sửa chữa nó sao hả Chúa?
Sang ngày hôm sau, sự việc Hoan ra đi trong Học viện ai cũng biết. Mọi người chỉ biết im lặng và ngậm ngùi trong sự tiếc xót cho Hoan mà thôi. Mấy người trong lớp với Hoan trấn an và dọn đồ đạc giúp anh. Sự việc diễn ra không chỉ mình anh sốc và hầu hết lớp anh đều bỡ ngỡ với sự ra đi của anh. Một người hiền lành, học giỏi như anh thế mà phải ra đi. Thế mới biết được ý định của con người dù hoàn hảo đến đâu cũng không thể ngờ được ý Chúa. Hôm nay thứ sáu, đã dọn đồ đạc xong, ngày mai một mình anh, chỉ một mình anh lặng lẽ ra đi, bước ra ngoài xã hội kia. Tối thứ sáu, kính mầu nhiệm Chúa Tử Nạn, đêm đó sau khi mọi người đã rời khỏi nhà nguyện hết, chỉ còn lại mình anh với Chúa. Tối đó anh thấy nhà nguyện sao xa lạ, trống vắng với anh quá; thường ngày đây là nơi anh tâm sự, bày tỏ nỗi lòng với người bạn tình Giêsu. Nhưng sao người yêu lại bỏ anh bơ vơ thế này cơ chứ?! Nhìn lên Thánh giá - người bạn tình của anh mà sao nước mắt anh cứ thế trào tuôn:
- Chúa ơi, nói gì với con đi chứ?! Chỉ còn vài giờ đồng hồ ngắn ngủi nữa con phải xa mãi nơi này, níu giữ con lại đi chứ?!- Anh nói nhưng chẳng có tiếng đáp trả nào, chỉ có tiếng anh văng vẳng lại.
- Sao Chúa cứ mãi im lặng như thế? Nói gì với con đi Chúa ơi?!- Hoan vừa khóc lại vừa quát mắng Chúa rồi gục đầu xuống ghế khóc nức nở.
- Sao người ra đi không phải ai khác mà lại là con hả Chúa. Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa có biết gia đình và họ hàng hy vọng nơi con thế nào hay không? Chúa đâu có ở trong hoàn cảnh của con mà tại sao Chúa lại bắt con chịu cảnh này hả Chúa? Chúa có biết con tuyệt vọng đến ngần nào không? Con chỉ muốn chết thôi, còn gì để cho con phấn đấu nữa hả Chúa ơi… Huhu…
Những lời Hoan trách móc Chúa càng ngày càng nặng nề hơn, nhưng Thiên Chúa vẫn cứ thế im lặng. Quả thật, con người ta khi hạnh phúc thì người ta cảm tạ Chúa, còn khi rơi vào hố tuyệt vọng thì người ta chỉ tìm đến Chúa và trách móc Ngài thôi, dường như người ta không biết cảm tạ Chúa trong những phút giây đau khổ. Hoan cũng vậy, dù anh đã được học nhiều điều, anh cũng đã biết được những tấm gương thời Cựu Ước như ông Gióp, nhưng đau khổ đến với anh, anh không muốn chấp nhận để cảm tạ Chúa như ông Gióp, mà trái lại anh trách móc Chúa dữ dội. Bất chợt, anh thò tay trong túi áo và lấy bài viết về cảm nghiệm có Chúa trong cuộc đời. Bài viết được bọc trong một phong bì còn mới cứng, được biên trên một trang giấy A4 trang trọng, chữ viết đậm, nắn nót, tựa đề bài viết: “ Vâng phục”.
... Vâng phục là dấu chứng của tình yêu Chúa. Vâng phục giúp con vượt qua mọi hoàn cảnh, mọi biến cố trong cuộc đời. Vâng phục giúp con loại bỏ cái tôi ích kỉ, loại bỏ những cám dỗ tầm thường. Vâng phục bề trên theo những quyết định con không muốn giúp con biết đào luyện nhân đức để có một cuộc sống phó thác hoàn toàn vào Chúa. Trong cuộc sống, con không biết vâng phục sao cho đủ nhưng chỉ xin Chúa thêm sức, nâng đỡ con để con vâng phục Chúa qua mọi người bằng tình yêu...
Đọc đến đây, anh gạt nước mắt rồi đứng lên, cũng chẳng cúi đầu chào Chúa, anh một mạch bước về phía cửa ra vào. Vừa mở cửa, một luồng gió mạnh thổi ngang qua khiến anh lạnh rùng mình, khi đã bước ra khỏi cửa, anh quay lại, ánh đèn chầu vẫn leo lét sáng và anh lấy hai tay từ từ khép cánh cửa, ánh đèn chầu càng ngày càng nhỏ dần đến lúc anh khép kín thì không thấy tia sáng nào nữa. Nhìn ngoài kia, cả một bầu trời tối thăm thẳm, anh vội bước nhanh về phòng.
Sáng hôm sau, tiếng chuông nhà nguyện văng vẳng bên tai Hoan, nhưng anh không thèm dậy đi lễ như mọi khi nữa. Sao anh thấy căm ghét Chúa đến thế không biết, vẫn biết đó là tiếng chuông gọi mời nhưng anh vẫn nhắm mắt và thiếp ngủ lúc nào không hay biết.
Khi kéo vali ra khỏi cánh cửa nhà dòng, Hoan ngầm ngùi bước đi: “Thôi. Chậc. Kệ! Đến đâu thì đến”, rồi anh thở một hơi dài và tiếp tục kéo vali đi. Khi anh vừa đi được mấy bước thì mấy anh xe ôm thấy miếng mồi ngon vội chạy lại, tranh giành nhau: “Anh ơi, đi đâu anh ơi!”, “Giá ưu đãi nè anh gì ơi!”. Và rồi anh cũng lên xe và nhờ họ kiếm cho anh một phòng trọ giá hợp lý. Nhiều tháng trôi qua, ba mẹ anh không biết việc anh rời khỏi nhà dòng, cứ nghĩ là anh đang trong giai đoạn thử thách nên không được liên lạc về với gia đình. Nhưng dịp nhà dòng khấn cho những thầy được chọn, trong số đó có một thầy cùng xứ với Hoan. Nhân tiện đó, ba mẹ Hoan nhờ người nhà của thầy cùng xứ hỏi thăm sức khỏe của Hoan luôn, vì từ quê Hoan đi xuống nhà dòng cũng phải mất một ngày đường. Khi người nhà của thầy cùng xứ nói là Hoan không ở trong nhà dòng nữa, Hoan ra mấy tháng nay rồi. Nghe được tin ba mẹ anh đặt vé xe rồi đi xuống nhà dòng ngay trong đêm đó.
Sau khi biết chuyện, ba mẹ vừa buồn cũng vừa thương xót cho số phận của con. Ba mẹ anh đã ở lại cùng anh mấy tháng trời dưới thành phố để động viên và nâng đỡ anh vượt qua giai đoạn này. Cũng may thay nhờ kiến thức sâu rộng và khả năng ngoại ngữ tốt nên ba mẹ khuyên anh đi làm để dần quên đi chuyện buồn đã qua, và anh cũng kiếm được công việc phù hợp khi được làm việc với người nước ngoài. Trước lúc ba mẹ Hoan về quê, ba cũng đã tâm sự với Hoan gần thâu đêm.
- Ba à, giờ nghĩ lại cứ như một giấc mơ ấy ba ạ! Con thật khó để chấp nhận nó, càng nghĩ con càng cảm thấy đau trong tim lắm ba ạ.
- Con trai à, vàng phải thử lửa mới thực là vàng, con cũng phải qua thử thách mới đích thực là người của Chúa. Nếu vàng qua thử lửa mà ra đen đuốc thì đâu phải là vàng. Con cũng vậy, nếu qua thử thách mà con gục ngã thì Chúa làm gì dám sử dụng con cho những ý muốn cao cả khác của Người nơi con.
- Lúc đó khoảng cách giữa con với Chúa thật xa vời, như nước với lửa vậy. Con căm ghét Chúa đến cực độ, con cũng không hiểu vì sao Chúa lại làm với con như vậy dù con đã cố gắng rất nhiều. Tự nhiên con thất vọng về Chúa quá !
- Con à, con thử nhìn lại cuộc đời của con bao năm qua, có thực là con không nhận ra bàn tay vô hình của Chúa đang dìu dắt con không?
- Nhưng ba à...
- Không nhưng gì hết, tại sao sự lành con lại biết đón nhận từ Chúa, mà sự dữ con không dám chấp nhận nó như một món quà Chúa gửi trao. Con nên nhớ rằng: khôn ngoan của con người chỉ dẫn đến tội lỗi và sự chết; còn khôn ngoan của Thiên Chúa Người sẽ dẫn đưa con đến hạnh phúc mai sau. Con cứ hãy cầu nguyện và ký thác cuộc đời cho Chúa con nhé. Ngài đang âm thầm dang tay chờ con trở về. Mắt Ngài đã lệ nhòa, tim Ngài đã vỡ nát khi con rời xa Ngài dù chỉ một phút giây.
- Vâng ạ. Tại con chưa sẵn sàng chấp nhận cú sốc nên gần như là con đã mất niềm hy vọng vào Chúa ba ạ.
- Con hãy nhớ rằng: Làm người Công giáo con được phép buồn nhưng con không được phép mất niềm hy vọng. Khi con mất niềm hy vọng vào Đức Kitô, đó mới chính là lúc con đánh mất tất cả con trai ạ. Con có nhớ lúc con ra đi đã hứa với ba mẹ: “Con đi làm thánh trong dòng tu, ba mẹ cũng hãy làm một vị thánh giữa đời”. Hãy can đảm lên con trai, ta cùng phấn đấu làm thánh con nhé, dù là trên cương vị nào.
Hoan không biết nói gì, anh ôm ba thật chặt vào lòng. Đó như là lời cảm ơn chân thành nhất dành cho người ba đáng kính. Anh tự hứa với mình từ nay phải cố gắng nhiều hơn nữa để tìm ra thánh ý Chúa thực hiện trên cuộc đời anh và anh chấp nhận để Chúa dẫn đưa anh qua mọi biến cố buồn vui của cuộc sống.
Đang lục lại những kỉ niệm cũ, tự nhiên anh nghe mùi khét ở dưới bếp. “Chết cha, nồi thịt của mình” ! Rồi Hoan một mạch lao nhanh xuống bếp.
Thế rồi ngày đi sang Mỹ cũng đã gần tới. Khi anh với ba mẹ đang chuẩn bị đồ đạc thì có người đến ấn chuông:
- Ai đó, vào đi ! Cửa không khóa.- Giọng Hoan vọng từ trong phòng vọng ra.
Người lạ vừa mở cửa bước vào, Hoan thốt lên:
- Cha Giám tỉnh, sao người lại biết con... sắp đi ?
- Con trai à, giai đoạn thử thách của con đã hoàn thành. Cha đến đây là để mời con về lại nhà dòng.
- Thưa cha Giám tỉnh, chuyện gì vậy ạ?! Con không hiểu ý cha.
- Thời gian thử thách của con đã xong. Bây giờ con có thể về lại nhà dòng để tiếp tục ơn gọi của con.
Hoan nhìn sang ba mẹ rồi quay sang cha Giám tỉnh:
- Nhưng mà con đã có công việc ổn định.
- Vậy con có muốn tiếp tục đời sống cộng đoàn không? Nếu con muốn, con có thể trở về nhà dòng. Sang tuần tới, các ứng sinh tĩnh tâm 3 ngày để chuẩn bị khấn. Nếu con vẫn khao khát ơn gọi thì đợt khấn này các cha sẽ xem xét đến trường hợp của con.
- Thôi chào con với chào ông bà cố cha về.
- Vâng ạ. Để con cầu nguyện xem Chúa muốn thực hiện điều gì trên con. Có gì ngày mai con sẽ hồi âm cha sau.
Và thế là một quyết định đến trong cuộc đời anh. Một công việc rạng ngời và một đời tu đầy thử thách. Nhưng trong trái tim anh, niềm khao khát dâng hiến vẫn còn bùng cháy. Sang ngày hôm sau, Hoan gọi cho công ty để xin lỗi, đồng thời Hoan cũng xin nghỉ việc luôn. Kể từ khi quay trở lại nhà dòng, anh biết rằng mọi điều bất ngờ sẽ luôn đến với anh nhưng anh vẫn phó thác và trông cậy nơi Chúa.


hình minh họa

Mẹ ơi! Mái tóc nhung huyền
Như dòng suối chảy xuôi miền xa xăm
Nhuộm mưa, sương gió bao năm
Kéo dài sợi nhớ, nối dài tình thương.

Mẹ ơi! Vất vả trăm đường!
Mẹ cho con cả tình thương một đời
Nhớ ngày sóng gió xa khơi
Mẹ đưa mái tóc trải đường con đi.

Một đời mẹ chẳng tiếc chi
Xuân xanh ngày cũ, sá gì tàn phai
Đường con đi tới tương lai
Mẹ ơi! Mái tóc nối dài sợi thương.

Thương cha vò võ dặm trường
Đôi vai nặng gánh, mắt vương lệ sầu.
Sách đèn canh những đêm thâu
Những lời khấn hứa, nguyện cầu dâng Cha.

Hy sinh mái tóc ngọc ngà
Mấy lần đi, bấy lần qua nhọc nhằn.
Ví như hoa thắm xa cành
Ân sâu nào dám, dạ đành quên sao.

Mênh mông biển lớn dạt dào
Mây trời phủ bóng công cha mấy tầng
Nguyện lòng son sắt dấn thân
Đáp đền Tình Chúa, xin dâng cuộc đời.

Tóc người điểm trắng sương rơi
Dẫn đưa con tới chân trời bình an
Vui trong Tình Mến ngập tràn
Sớm chiều bên Chúa, khẽ khàng nguyện xin.

Thước đâu đo hết nghĩa tình
Mẹ sao quên hết thân mình vì con
Ân sau ghi khắc vuông tròn
Mẹ ơi! Suối tóc đâu còn màu xanh!!!

Xin Cha chúc phúc ơn lành
Song thân phụ mẫu sinh thành ra con
Một đời khuya sớm héo hon
Gánh gồng mưa nắng bên sông cuộc đời.

*Kính chia sẻ cùng Tân Lm Pet. Nguyễn Tuấn Vũ
Dòng Truyền Giáo Thánh Carôlô – Scalabrinians.
14/5/2017
Suối Ngàn

Đọc Hàn Mạc Tử, người ta vấp ngay phải vấn đề: Hàn Mạc Tử, anh là ai? Hoặc hẹp và ít trừu tượng hơn: Hàn Mạc Tử có phải là nhà - thơ - tôn - giáo không? 



Câu hỏi này có nhiều câu trả lời. Để khỏi vướng vào những tranh luận không lối thoát, tôi giải đáp vấn đề theo cách riêng của mình. Nếu Nguyễn Trọng Trí là một tín đồ Thiên Chúa giáo thì Hàn Mạc Tử lại là một nhà thơ. Với nhà thơ thì nghệ thuật là tối thượng, là đạo. Nhưng nhà thơ ấy lại không thể không liên quan đến vị tín đồ kia, nhất là trên phương diện hình thành một nhân cáchkiểu tư duy. Hơn nữa, Hàn Mạc Tử với tư cách là một nhà thơ coi tôn giáo với tất cả tinh thần của chữ ấy là một cái gì đó đời đời vĩnh hằng và tuyệt đỉnh của nghệ thuật (Tựa tập thơ Tinh huyết của Bích Khê). Với một quan điểm tôn giáo như vậy, những Chúa, những Phật, những Tây Vương Mẫu.. chỉ là những biểu tượng cụ thể của cái Duy nhất, cái Vĩnh hằng... Đến với Hàn Mạc Tử, từ khía cạnh tư duy, tư duy tôn giáo, là hợp lý hơn cả. Điều đó chẳng những khắc phục sự tranh chấp bất phân thắng phụ về vấn đề “Hàn Mạc Tử có phải là nhà thơ tôn giáo không?”, mà còn cho phép thâm nhập vào bản chất nghệ thuật của thi nhân. Dĩ nhiên, tôn giáo là một hiện tượng đa tạp, có khoảng sáng và vùng tối, có thoát tục và có trần tục, nhất là với tư cách là một thiết chế xã hội. Ở đây chúng tôi chỉ xét tôn giáo trên phương diện thuần túy là một kiểu tư duy.

Tư duy ma thuật, mà chừng nào đó là tư duy huyền thoại, do tính chất đa thần, đã xé vụn thế giới ra thành những mảnh riêng rẽ (tục ngữ: “Đất có Thổ công, sông có Hà bá”). Còn với tư duy tôn giáo, do tính chất độc thần, thế giới vỡ vụn đã được thống nhất trở lại. Nhờ đó, con người mới có điều kiện để nhận thức bản chất thế giới, trả lời những câu hỏi bản thể luận như nguồn gốc của vũ trụ và con người, ý nghĩa của cuộc sống và cái chết... Tôn giáo, do đó, đóng vai trò chế tư tưởng chuyển thành những giá trị riêng tư, cá nhân, dân tộc, khu vực thành những giá trị chung, thế giới, nhân loại. Phật giáo coi mọi người đều có chung một thân phận mà ai nấy đều phải gánh chịu là tứ khổ: sinh, lão, bệnh, tử. Do đó, ước mong được vớt khỏi bể khổ không là của riêng ai. Coi mọi người bất kể sang hèn, giàu nghèo đều có Phật tính, nghĩa là có khả năng trở thành Phật, là một tư tưởng bình đẳng, nhân đạo. Thiên Chúa giáo cũng thừa nhận mọi người đều bình đẳng trước Chúa, vì giá trị của mỗi người là ở bản thân hành động của anh ta, chứ không phải ở tài sản, địa vị...
Như vậy, xét trên khía cạnh tư duy tôn giáo, các nhà thơ - thiền sư Lý - Trần (Phật giáo) và Hàn Mạc Tử (Thiên Chúa giáo) đều có trong tay một công cụ như nhau (cơ chế tư tưởng) để nhân loại hóa thơ mình. Đó là sự giống nhau ở họ. Còn sự khác nhau, trước hết và chủ yếu, là ở sự khác nhau giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Một là, con người trong mắt các nhà thơ thiền là con người siêu cá thể, trừu tượng. Con người trong thơ Hàn Mạc Tử là một con người cá nhân, cụ thể. Thiên Chúa giáo coi trọng cá nhân, nhìn con người như một cá nhân là do việc xưng tội buộc nó phải đánh giá, phán xét tâm hồn, hành vi con người một cách riêng tư. Tín đồ Thiên Chúa giáo tự chịu trách nhiệm trước Chúa về bản thân mình, với tư cách cá thể. Hai là, các nhà thơ Lý - Trần coi Hữu, Vô như nhau, sự sống, cái chết như nhau (Vạn Hạnh: “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”). Bởi vậy, họ rất coi thường thân, thân là không, cái thân hiện ra, tức sắc thân, chỉ là ảo. Hàn Mạc Tử, ngược lại, rất coi trọng cuộc sống và cái chết, coi trọng thân xác. Tóm lại, nguyên cớ căn bản khiến Hàn Mạc Tử khác và cũng là mới hơn các nhà thơ Lý - Trần là ở tính chất cá nhân đến với ông bằng hai nẻo: Thiên Chúa giáo và nền văn minh phương Tây được xây dựng trên cơ sở Thiên Chúa giáo.
Chính tư duy Thiên Chúa giáo đã làm cho sáng tác
 của Tử tạo nên một vũ trụ thống nhất, hoàn chỉnh
Chính tư duy Thiên Chúa giáo đã làm cho sáng tác của Hàn Mạc Tử có cấu trúc nội tại, không những ở cấp vi mô (từng bài thơ) mà cả ở cấp vĩ mô (toàn bộ các tác phẩm), tạo nên một vũ trụ thống nhất, hoàn chỉnh. Theo nhà nghiên cứu Đặng Tiến thì Gái quê là thế giới đợi chờ Điềm lạ, đợi chờ Chúa ra đời, Đau thương là tâm hồn mong mỏi Chúa trở lại. Trong Đau thương, Hàn Mạc Tử chấp nhận bệnh tật như là nguyên tội, là “phương tiện thân xác” mà Chúa đã dùng để cứu thế. Bệnh tật là tham gia vào công đức cứu rỗi, làm nối liền người bệnh với bản thân Chúa-hiện-làm-người. Còn Xuân như ý là thế giới Khải huyền; con người rũ sạch được tội lỗi Đau thương (tạp chí Văn, số 179, năm 1971). Như vậy, trên bình diện cấu trúc tác phẩm, sáng tác của Hàn Mạc Tử, một cách vô thức, đã “minh họa” cho con đường cứu rỗi của Thiên Chúa giáo. Hành trình tác phẩm của Hàn Mạc Tử là hành trình đi tìm giải pháp cho Đau thương. Với ý nghĩa này, ta còn có một lý giải khác từ góc độ tôn giáo - nghệ thuật là chia toàn bộ sáng tạo của nhà thơ thành ba thời kỳ, Một là giai đoạn Cổ điển với Lệ Thanh thi tập. Đây là sự hài hòa của Hàn Mạc Tử với chính mình và với xung quanh, tương ứng với thời thơ ấu của con người hay “thuở thiên đường” của nhân loại. Hai là giai đoạn Lãng mạn, Tượng trưng và Siêu thực với Gái quê, Đau thương và một phần của Xuân như ý... Hài hòa bị phá vỡ. Con người bất ổn với chính mình và hoàn cảnh: đau khổ, mơ ước, điên dại... Nó tương ứng với thời kỳ trưởng thành, vấp váp, bệnh tật của con người và của nhân loại “mất thiên đường”. Ba là, giai đoạn tân cổ điển với một phần của Thượng thanh khí và toàn bộ Cẩm châu duyên. Sự hài hòa lại được tái lập, dĩ nhiên là trong mơ ước, trong giấc mơ tôn giáo, Đau thương rũ bỏ. Con người được trở lại “thiên đường” của mình. Các tôn giáo Đông phương cũng đi tìm giải pháp cho Đau thương. Phật giáo coi cuộc đời là bể khổ, mà nguồn gốc của đau thương là dục vọng. Cho nên diệt dục là con đường cứu khổ cứu nạn. Lão Tử thì đưa ra thuyết vô vi, sống theo tự nhiên thì sẽ chữa được những lầm lạc của người đời. Chỗ gặp nhau của những tôn giáo lớn – những tư tưởng lớn là ở đây. Hạt nhân triết học của những tôn giáo lớn cũng là ở đây.
Tư duy tôn giáo còn là một công cụ hữu hiệu để nâng cánh cho trực giác nghệ thuật tuyệt vời của thi nhân bay cao, bay xa vào cõi siêu hình. Nhà thơ có một cái nhìn vũ trụ trong tính toàn thể, tính siêu việt của nó với một cảm xúc tràn đầy:
Mới hay cõi siêu hình cao tột bực
Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao
Xa lắm rồi, xa lắm, hãi nhường bao!...
Ai tới đó chẳng mê man thần trí
Tòa châu báu kết bằng hương kỳ dị
Của tình yêu rung động bởi hào quang
Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang
Sẽ quy tụ thâu về trong một mối
Và tư tưởng chẳng bao giờ chắp nối...
Bức tranh vũ trụ được thi sĩ dùng trực giác để vẽ ra tưởng như đã gặp đâu đó trong một cuốn thiên văn học hiện đại nào. Con người bay vào vũ trụ (cõi siêu hình cao tột bực), thoạt tiên còn có cảm giác cô đơn, nhỏ bé trước sự bao la (hãi nhường bao!), nhưng rồi thần trí mê man trước vẻ châu báu của vũ trụ, vũ trụ là thống nhất (“Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang - Sẽ quy tụ thâu về trong một mối”), nên tư duy của con người, cái phản ánh của vũ trụ cũng mang tính thống nhất (“Và tư tưởng chẳng bao giờ chắp nối”). Bài thơ cho thấy Hàn Mạc Tử đã đạt đến một tinh thần tôn giáo-vũ trụ (khái niệm của A. Einstein): đó là tính toàn thể của thế giới và tính nhất thể giữa con người và thế giới.
Hàn Mạc Tử thường hay quay trở về cội nguồn, với mùa xuân đầu tiên của trời đất và con người. Dường như ông tìm thấy ở đây sự nhất thể tính nguyên sơ của con người và vũ trụ - căn nguyên của mọi nghệ thuật, châu báu và con người đời sau đã đánh mất trong biển thời gian, và chỉ còn giống thi sĩ là cố công ngụp lặn, mò tìm:
Thuở ấy càn khôn mới dựng nên
Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên
Người thơ phong vận như thơ ấy
Nào đã ra đời ngọc biết tên.
(Xuân đầu tiên)
Nhờ tinh thần tôn giáo- vũ trụ đó, các bài thơ xuân của Hàn Mạc Tử (Mùa xuân chín, Xuân đầu tiên, Đêm xuân cầu nguyện) chẳng những giữ được vẻ trinh nguyên của đất trời, mà còn đượm một cảm giác huyền bí thiêng liêng của cuộc đời. Đó là ánh thiều quang khác lạ của thơ xuân Hàn Mạc Tử so với thơ xuân của các thi sĩ cùng thời.

Đỗ Lai Thúy
(Trích từ bài Hàn Mạc Tử, một tư duy thơ độc đáo, PCĐ-2, trang 494-506)

Bài viết này được trích từ bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo, linh mục Trăng Thập Tự chủ biên, tập I, trang 218-221.


Bàn tay xương
níu cành khô gãy đổ
Hái hạt kinh chiều
loang lỗ vết hư vô
Còn chút niềm tin
gầy gò trên hạt nhỏ
Ru hồn chiều
vào võng tối đong đưa


Vó ngựa ai lên đường
nghe lưa thưa, thiểu não
Giữa chiều lên
mờ ảo dặm đường xa
Khi chim gọi bầy
hoan ca bay về tổ
Ta mới băng rừng
cầm rổ hái trái thiêng

Ta đảo điên
say
chung rượu chiều nghiêng đổ
Trên vũng lầy sướng khổ,
mắt ngước cao
Tiếng kêu gào loãng tan
tưởng như vô bổ
Những thách đố
trên bàn cờ tàn cuộc:
cuộc thắng thua


Giang Tịnh


Kính thưa quý tác giả và bạn đọc, đặc biệt các bạn trẻ,

BBT xin trân trọng giới thiệu thư của Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri mời các bạn trẻ Công giáo đến thăm và khám phá Giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng trong dịp hè đặc biệt này:

- Trong 4 ngày, từ 28-31/7/2017 sắp đến, Giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng sẽ mở cửa tiếp đón các
Bạn Trẻ Công giáo nam nữ, tuổi từ 18-25, đã tốt nghiệp PTTH, cao đẳng hay đại học, muốn đến
tham quan tìm hiểu về Giáo phận đặc biệt này. Tòa Giám mục Lạng Sơn sẽ đón tiếp các bạn nam
và Tu xá Đaminh Lạng Sơn xứ Chính Tòa Cửa Nam sẽ đón tiếp các bạn nữ.


- Các Bạn sẽ ngạc nhiên khám phá vùng đất đa dạng sinh học, đầy bản sắc văn hóa, sinh hoạt

phong phú của người dân tại đây. Các Bạn sẽ thấy mình trở nên quan trọng trong sứ mệnh loan
báo Tin Mừng mà có thể xưa nay các Bạn chưa cảm nhận được ở những nơi giáo dân đông đúc.
- Nếu được Chúa đánh động, các Bạn đừng chậm trễ liên lạc với chúng tôi, để biết những điều
kiện tham dự, nhận tài liệu nghiên cứu và làm hồ sơ ghi danh, trước ngày 15/7/2017.

Xin xem chi tiết trong thư đính kèm:


Với thủ pháp kết hợp tư, Sứ Điệp Tình Thường không chỉ đơn thuần là một bản chuyển thể Phúc âm mà còn là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị về mặt văn học.
Với thủ pháp kết hợp tư, Sứ Điệp Tình Thường không chỉ đơn thuần là một bản chuyển thể Phúc âm mà còn là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị về mặt văn học.


Đôi lời giới thiệu bài viết: Thi Hào Nguyễn Du đã viết truyện Kiều với 3254 câu thơ lục bát.Linh mục F.Nguyễn Xuân Văn viết SỨ ĐIỆP TÌNH THƯƠNG với gần 10.000 câu và CUỘC ĐỜI ĐỨC MẸ trên 1000 câu nữa. Bài viết của Bác sĩ kiêm nhà thơ Đoàn Xuân Dũng năm 2005 giúp chúng ta so sánh thi tài của hai nhà thơ lục bát Việt Nam. Xin chân thành cám ơn Bs Đoàn Xuân Dũng. Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng.

Bài 1 : KỸ NĂNG KẾT HỢP VÀ TẠO TỪ MỚI
CỦA THI SĨ NGUYỄN XUÂN VĂN

Khi vạch kế hoạch viết tác phẩm Sứ Điệp Tình Thường, có lẽ nhà thơ Nguyễn Xuân Văn đã tốn rất nhiều công sức để làm sao chuyển thể bộ Tân ước qua văn vần mà không làm cho người đọc nhàm chán khi tránh lập lại những từ ngữ thông thường, bằng cách kết hợp các thủ pháp của nghệ thuật làm thơ một cách thật linh động. Điều đó có thể minh chứng qua những cách kết hợp sau đây của tác giả.

I- KỸ NĂNG KẾT HỢP ĐIỆP TỪ, TÁCH TỪ VÀ CÂU ĐỐI XỨNG:

Ví dụ 1: Ôi! lòng tin kém dường nào
Giống như kẻ ngoại lo vào lo ra
Lo ăn mặc, lo cửa nhà
Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên. (1709 – 1712)

Để diễn tả tâm trạng của kẻ thiếu lòng tin, qua 3 câu thơ, tác giả đã sử dụng 6 lần điệp từ “lo” để nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại cái lo quá sức không cần thiết, kết hợp với phương pháp tách từ “vào” và “ra” để nhấn mạnh thêm tâm trạng không lúc nào an tâm, đồng thời sử dụng câu đối xứng “lo cau trổ muộn, lo già hết duyên” để diễn tả hết cái lo vật chất “ăn mặc, cửa nhà” đến cái lo tinh thần.

Ví dụ 2: Ăn làm sao? Nói làm sao?
Đất không nhận diện, / trời nào điểm danh.
Nghe lời Ta biết thực hành
Khôn ngoan nên mẫu, / trung thành nên gương. (1791 – 1794)

Tác giả tách từ “ăn nói’, “đất trời”, “gương mẫu” để tạo thành những vế đối trong trong cả hai câu tám để nhấn mạnh cái nội dung chính là phải “nghe lời Ta”.

Ví dụ 3: Thừa cơ nước đục sóng ngầm
Làm cho, cho lỡ cho lầm một phen
Ra tay đổi trắng thay đen
Sao cho, cho hạ cho hèn mới thôi. (3651 – 3654)

Khi sử dụng điệp từ “cho” và tách từ ‘lỡ lầm”, “hèn hạ” tác giả đã khiến cho âm mưu của bọn thầy thông biệt phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu trong vụ xử người đàn bà ngoại tình nhằm mục đích miệt thị Ngài trở trên nặng nề gấp bội.

Ví dụ 4: Nung không chảy, / cháy không tiêu
Càng không chết được, / càng nhiều đắng cay. (5015 – 5016)

Với thủ pháp tách từ “nung cháy” kèm vận dụng điệp từ “càng” khiến cho cả hai vế trong mỗi câu trở nên đối xứng một cách tài tình.

Ví dụ 5: Dựng nên nhân loại từ đầu
Một đôi nam nữ, / một khâu vợ chồng. (5101 – 5102)

Hai vế đối xứng của câu tám thật hay, cái đôi nam nữ ấy là cuộc hôn nhân đầu tiên mà Thiên Chúa đã tác hợp nên vợ chồng.

Ví dụ 6: Mặc cho suy ngắn luận dài
Mắt mù quáng mắt, / lòng chai đá lòng
Không còn phân biệt đục trong
Để mong hối cải, / để hòng an thuyên. (5827 – 5828)

Chỉ vỏn vẹn trong 2 câu thơ mà tác giả đã vận dụng phương pháp tách từ “suy luận” kết hợp với điệp từ “mắt”, “lòng” tạo nên vế đối thật chỉnh. Cái “mù quáng” và “chai đá” đó còn được nhấn mạnh thêm ở câu tám với vế đối “Để mong hối cải” / “Để hòng an thuyên”.

Ví dụ 7: Tố gian, tố dối một hồi
Bên mâu bên thuẫn, tố bồi lẫn nhau. (7863 – 7872)

Tính “gian dối”, cái “mâu thuẫn” càng trở nên nặng nề hơn khi được tác giả kết hợp thủ pháp tách từ “gian”, “dối” và “mâu”, “thuẩn” với điệp từ “tố”.

Ví dụ 8: Nhổ vào mặt, khạc vào đầu
Thi nhau bứt tóc giựt râu tơi bời. (7921 – 7922)

Hai động từ ghép “khạc nhổ” khi tách từ vẫn mang ý nghĩa độc lập nhưng nó lại được làm tăng thêm ý nghĩa khinh miệt khi đối tượng của nó được nhấn mạnh là “mặt”, “đầu” nhờ điệp từ “vào”.

II- KỸ NĂNG KẾT HỢP ĐIỆP TỪ, ĐIỆP NGỮ VÀ ĐẢO NGỮ:

Ví dụ 1: Được mời dự tiệc cao lương
Cùng ta kết nghĩa thịt xương thâm tình
Cùng nhau như bóng với hình
Trong hình có bóng, trong mình có Ta
Cùng nhau máu thịt hợp hoà
Trong thịt có máu, trong Ta có mình. (2789 – 1794)

Để diễn đạt mầu nhiệm của Bí Tích Thánh Thể và sự hợp nhất một cách trọn vẹn với Mình Máu Thánh Chúa, Linh mục Thi sĩ Nguyễn Xuân Văn đã sử dụng các điệp từ “trong”, “bóng”, “hình”, “máu”, “thịt”, “Ta”, “mình” và các điệp ngữ “cùng nhau” với cách đảo ngữ “trong Ta có mình”, “trong mình có Ta” làm cho ta có cảm tưởng nó đan xen một cách mật thiết mà không cách nào tách ra được. Phải là một người có kỹ năng sử dụng từ ngữ điêu luyện thì mới có thể vận dụng nó một cách nhuần nhuyễn như vậy.
Ảnh chân dung của cố linh mục
Phanxicô Xavie Nguyễn Xuân Văn thời trai trẻ

Ví dụ 2: Lại càng bị xéo bị dày
Lại càng dập mặt rách mày tả tơi
Lại càng đuối sức mòn hơi
Liệt gân rũ cốt rã rời tay chân
Cực thân cực xác một phần
Cực tâm cực trí ngàn lần thêm kinh.
Khổ lòng bằng vạn khổ hình
Tội đền vạ chịu công linh nào vừa. (8655 – 8662)

Trên đường khổ nạn, tác giả đã khéo dùng điệp ngữ “lại càng”, tách từ “cực khổ” và tạo thành các điệp từ “cực” và “khổ” đã làm tăng nỗi khổ đau của Đức Kitô lên bội phần.

III- KỸ NĂNG KẾT HỢP ĐIỆP TỪ, TỪ ĐỒNG NGHĨA, CÂU ĐỐI XỨNG:

Ví dụ 1: Gọi Thầy là Chúa là Thầy
Ý vừa đúng ý, / lời hay phải lời. (6797 – 6798)

Tác giả đã bố trí điệp từ ‘ý” và “lời” tạo thành hai vế đối xứng trong câu tám với từ đồng nghĩa “đúng’ và “phải” thật hay.

Ví dụ 2: Tuyên xong bản án bất công
Nghe lòng như bị mũi chông đâm vào
Nặng nề xuống khỏi toà cao
Vừa dơ dáng mặt, / vừa ngao ngán đời. (8571 – 8574)

Cách kết hợp điệp từ “vừa” với các từ láy “dơ dáng” và “ngao ngán” cùng vần “áng” tạo nên hai vế đối không những đã hay mà khi đọc lên còn tạo nên vần điệu thật êm tai.

Ví dụ 3: Xin Cha tha thứ, Cha ơi!
Bắt đền sao nổi, / bắt bồi sao kham. (8867 – 8868)

Kiểu tách từ “đền bồi” kết hợp với điệp từ “bắt” để nhấn mạnh rồi hai từ đồng nghĩa “sao nổi”, “sao kham” tạo nên hai vế đối không những hay về hình thức mà còn làm nổi bật nội dung câu thơ mà tác giả muốn nói lên.

Ví dụ 4: Dốt nghề nhờ cậy ai đây?
Bạn lơ láo bạn, tình trây trúa tình. (4705 – 4706)

Kết hợp điệp từ “bạn”, “tình” với từ láy “lơ láo”, “trây trúa” tạo nên hai vế đối xứng không những hay về hình thức mà còn sâu sắc về nội dung “Bạn lơ láo bạn” / “Tình trây trúa tình”.

IV- KỸ NĂNG KẾT HỢP ĐẢO TỪ VÀ CÂU ĐỐI XỨNG:

Đảo từ là một thủ pháp rất thường được các thi sĩ sử dụng trong thơ. Cái hay của Nguyễn Xuân Văn là không sử dụng thủ pháp này một cách đơn thuần mà kết hợp tạo nên những vế đối trong thơ lục bát.

Ví dụ 1: Giựt mình cả bọn ngã nhào
Chẳng còn biết đất trời đâu mà rờ
Giây sau bừng tỉnh giấc mơ
Hoang mang đầu óc, / bơ phờ tóc tai. (7703 – 7704)

Trong câu văn bình thường thứ tự câu phải được viết như sau:

– Đầu óc hoang mang.
– Tóc tai bơ phờ.

V- KỸ NĂNG LẶP TỪ VÀ TÁCH TỪ:

Ví dụ 1: Bao giờ gặp cảnh đuổi xua
Quỷ ma biết cách chào thua chạy dài
Quanh quanh quẩn quẩn bên ngoài
Xa ngôi nhà cũ độ vài ba hôm. (4351 – 4354)

Tác giả tách từ “quanh quẩn” để tạo nên kiểu lặp từ “quanh quanh”. “quẩn quẩn” khiến cho ta cảm thấy bọn quỷ dữ vẫn còn chờ thời cơ để tiếp tục làm huỷ hoại con người.

Ví dụ 2: Lời quan thực thực hư hư
Nghe ra đâu phải nói từ ruột gan. (8259 – 8260)

Ứng dụng thủ pháp tách từ “thực hư” để tạo nên kiểu lặp từ “thực thực”, “hư hư”, tác giả đã làm cho người đọc biết được cá tính của Phi- la- tô là không dứt khoát khi giải quyết vấn đề, chứng tỏ sự thiếu trách nhiệm trong cương vị của một vị quan tổng trấn.

VI- KỸ NĂNG KẾT HỢP TỪ ĐỒNG NGHĨA VÀ TRÁI NGHĨA TRONG CÂU ĐỐI XỨNG:

Ví dụ 1: Nào đâu thấy Chúa cơ hàn
Mà đem cơm áo ủi an bao giờ
Chúa đâu lưu lạc bơ vơ
Để mong cửa trước, để chờ ngõ sau
Bao giờ thấy Chúa ốm đau
Ngày lo cơm cháo, đêm hầu thuốc thang. (6551 – 6556)

Tác giả dùng cặp từ trái nghĩa “cửa trước”, “ngõ sau”; “ngày lo”, “đêm hầu” và “cơm cháo”, “thuốc thang” để tạo nên các vế đối xứng khién cho người đọc không thể không lưu tâm đến nội dung mà tác giả muốn diễn đạt.

Ví dụ 2: Mấy lời bảo khẽ vào tai
Người trong bối rối, kẻ ngoài phân vân. (6839 – 6840)

Với cặp từ trái nghĩa “người trong”, “kẻ ngoài” kết hợp với cặp từ đồng nghĩa “bối rối”, “phân vân” tạo nên hai vế đối xứng thật hoàn chỉnh.

VII- SỬ DỤNG CÂU ĐỐI XỨNG:

Câu đối là loại văn bản mang tính độc đáo của bản sắc văn hoá dân tộc và của văn hoá phương Đông. Đây là loại văn bản có tổ chức rất ngắn gọn chỉ gồm có hai câu được tổ chức theo kiểu kết cấu tương phản hay đối chọi nhau cả về hình thức âm thanh lẫn ý nghĩa. Nó là loại thơ 2 câu, thơ trang trí. Mỗi câu có 7 chữ, đứng riêng ra vẫn có ý nghĩa trọn vẹn.

Lm Nguyễn Xuân Văn
Lm Nguyễn Xuân Văn
Về mặt ngôn ngữ, câu đối được xây dựng trên cơ sở của “tính âm tiết”, một đặc điểm quan trọng của loại hình ngôn ngữ đơn lập, tiêu biểu là các ngôn ngữ như tiếng Việt, tiếng Hán. Về mặt văn hoá, nó được xây dựng trên cơ sở triết lý âm dương lấy cân xứng để tạo nên hài hoà, lấy sự hoàn chỉnh để tạo nên vẻ đẹp có tính thẩm mỹ nghệ thuật.

Hiện nay với sự đa dạng của phong cách nghệ thuật, tính chất ngôn ngữ của câu đối cũng có nhiều biến đổi: ít có sự đối xứng hoàn toàn từng câu, từng chữ, mà lấy đối ý làm chủ yếu. Số chữ trong câu cũng không nhất thiết phải 7 chữ như trước mà mở rộng rất nhiều.

Dưới sự mở rộng đó, thi sĩ Nguyễn Xuân Văn đã vận dụng cách đối này trong thơ lục bát ngay trong mỗi một câu thơ. Bởi vì trong thơ lục bát không có sự cân đối về số chữ giữa hai câu với nhau. Cho nên với câu 6, tác giả sử dụng cách đối xứng 3 / 3 và trong câu 8 là cách đối xứng 4 / 4. Khi chia đối xứng như vậy thì không thể nào có sự đối về luật bằng mà chỉ có thể đối ý mà thôi nhưng vẫn làm tăng tính nghệ thuật và thẩm mỹ của tác phẩm nhờ tăng thêm nhạc điệu của câu thơ.

1- Đối xứng trong câu 6 chữ:

Ví dụ 1: Đồng dòng dõi, / xứng tông môn
Cùng nàng đủ lễ đính hôn ước nguyền. (111 – 112)

Ví dụ 2: Chúa vào mở sách chọn đề
Lời Kinh ý nghĩa đủ bề triển khai
Người phục lý, / kẻ phục tài
Có tên quỉ ám lai nhai nhất thời. (1113 – 1116)

Ví dụ 3: Thấy tận mắt, / nghe tận tai
Nhiều người công chính vọng hoài khi xưa. (2211 – 2212)

Ví dụ 4: Xuyên qua ý, / thấu qua lòng
Chúa ngầm giải đáp bằng vòng dụ ngôn. (4645 – 4646)

Ví dụ 5: Sông chưa cạn, / đá chưa mòn
Đức Tin rồi nữa có còn hay không?

Ví dụ 6: Giờ ly biệt, phút tử sinh
Làm sao kể hết tâm tình cho vơi. (6877 – 6878)

Ví dụ 7: Trời đẹp mặt, đất tươi mày
Qua cơn ác mộng là hay Thầy về. (7281 – 7282)

Ví dụ 8: Không giật ghế, / chẳng giành ngai
Đời không phải chỗ tranh tài hơn thua. (8265 – 8266)

Ví dụ 9: Không đũa ngọc, / chẳng mâm son
Mà nhiều hương vị thơm ngon lạ lùng. (9425 – 9426)

2- Đối xứng trong câu 8 chữ:

Ví dụ 1: Hờn duyên tủi phận với người
Chịu câu khinh bạc, / nhịn lời mỉa mai. (39 – 42)

Ví dụ 2: Ông bà dáng dấp nghèo nàn
Người kinh bạc đuổi, / kẻ tàn bạo xua. (321 – 322)

Ví dụ 3: Thầy trò khăn gói đề huề
Hướng nhà quen lối, / bóng quê thạo đường. (1269 – 1270)

Ví dụ 4: Một hôm dân chúng gần xa
Vượt tràn sóng gió, / băng qua núi rừng. (1465 – 1466)

Ví dụ 5: Ôi lòng chai đá người ta
Lửa nung không chảy, / mưa sa chẳng sờn. (1929 – 1930)

Ví dụ 6: Con trai bị bố bỏ rơi
Gái xa hiền mẫu, / dâu rời mụ gia. (2577 – 2578)

Ví dụ 7: Chúng rằng: “Nhờ quỷ Dê- bu
Chở che phía trước, / hộ phù bên sau. (4285 – 4286)

Ví dụ 8: Hay là cho chúng thong dong
Xuống khe nước ngọt, / lên đồng cỏ thơm. (4481 – 4482)

Ví dụ 9: Vừa đi vừa giảng lần hồi
Sớm vùng thành thị, / chiều nơi xóm làng. (4489 – 4490)

Ví dụ 10: Chi bằng mời kẻ tật nguyền
Áo cơm túng thiếu, bạc tiền khó khăn. (4557 – 4558)

Ví dụ 11: Bao nhiêu của cải đâu còn
Chân tê sòng bạc, / gót mòn lầu xanh. (4825 – 4826)

Ví dụ 12: Hỡi quân ăn bẩn uống tồi
Ruột gan giả nghĩa, / miệng môi giả hình. (6271 – 6272)

Ví dụ 13: Bên trong dối trá ngang tàng
Độc ngâm đầy bụng, / ác mang nặng người. (6283 – 6284)

Ví dụ 14: Chúng con bền chí theo Thầy
Gian lao không bỏ, / đắng cay không rời. (6735 – 6736)

Ví dụ 15: Cùng nhau vinh hiển một nhà
Rượu thơm chung chén, / tiệc hoa đồng bàn. (6739 – 6740)

Ví dụ 16: Tô- ma cất giọng càu nhàu:
Rằng: “Nơi Thầy đến biết đâu mà dò?
Nếu Thầy không chỉ đường cho
Xa gần ai biết, / quanh co ai tường?” (6975 – 6978)

Ví dụ 17: Cho thế gian mở mắt ra
Thấy Con tận nghĩa, / thấy Cha tận tình. (7079 – 7080)

Ví dụ 18: Đoạn đường đau khổ còn dài
Đắng cay ngàn nỗi, / chông gai vô vàn. (7333 – 7334)

Ví dụ 19: Sau lưng đứa đẩy đứa xô
Dây da kéo cổ, / gậy thô đập đầu. (7777 – 7778)

Ví dụ 20: Kỳ hào tư tế quay cuồng
Như bầy quỷ ám, / như tuồng khùng điên
Chạy lui chạy tới liền liền
Tai nghe quỷ dục, / miệng khuyên sói gầm. (8387 – 8390)

Ví dụ 21: Trông Con thảm quá Con ơi!
Ngọc sa vũng lấm, / châu rơi bãi sình. (9103 – 9104)

Ví dụ 22: Rước thi thể Chúa đưa sang
Nước hoa rửa máu, / lụa vàng lau thương. (9153 – 9154)

Ví dụ 23: Các bà cúi mặt làm thinh
Nỗi e cứng miệng, / nỗi kinh ngại lời. (9221 – 9222)

Ví dụ 24: Cho muôn dân tỉnh mộng đời
Sương gieo ân tứ, / mưa rơi phúc lành. (9709 – 9710)

3- Đối xứng trong cả câu 6 và câu 8 chữ:

Ví dụ 1: Tay cầm bánh, / mắt nhìn trời
Xướng câu chúc tụng, / đọc lời tạ ơn. (6905 – 6906)

Ví dụ 2: Mặt biến sắc, / mắt lạc thần
Ngực thoi thóp thở, / người bần bật run. (8797 – 8798)

Ví dụ 3: Ngực căng cứng, ức vun cao
Thở ra khí uất, / hít vào nghẹn hơi. (8823 – 8824)

Ví dụ 4: Mẹ lo, Mẹ sợ biết bao
Chân run rẩy bước, / lòng xao xuyến buồn
Máu Con đổ, / lệ Mẹ tuôn
Hiệp công đền tội cho muôn ngàn đời. (8893 – 8896)

Với thủ pháp kết hợp tư, Sứ Điệp Tình Thường không chỉ đơn thuần là một bản chuyển thể Phúc âm mà còn là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị về mặt văn học.

VIII- SỬ DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ:

Trong kho tàng ngôn ngữ của dân tộc, thành ngữ, tục ngữ là những đơn vị có sẵn được hình thành từ lâu đời. Nó có đặc điểm là rất giàu hình ảnh và hình tượng.
Tác giả Sứ Điệp Tình Thường đã thường xuyên vận dụng thành ngữ, tục ngữ phục vụ cho mục đích xây dựng hình tượng tác phẩm.

Ví dụ 1: Nam nhi điểm mặt bốn phương
Anh hùng hào kiệt phải nhường cho Gioan. (1903 – 1904)

“Anh hùng hào kiệt”: anh là người có tài xuất chúng, hùng là người có sức mạnh khí phách, hào là tài giỏi hơn người, kiệt là là có tài năng hơn người.

Ví dụ 2: Tao nhân mặc khách xa gần
Được mời Chúa cũng góp phần chia vui. (2021 – 2022)

“Tao nhân mặc khách”: người tri thức, thích văn chương, thích sống cuộc đời thanh nhàn hợp với thiên nhiên.

Ví dụ 3: Hạt nhằm đất sỏi không may
Mọc lên độ một vài ngày nắng thiêu.
Hạt nhằm bụi rậm gai nhiều,
Nghẽn đi một sớm một chiều mà thôi. (2187 – 2190)

“Một sớm một chiều” : trong khoảng thời gian hết sức ngắn (khó có thể đạt được kết quả).

Ví dụ 4: Nhà nào huynh đệ tương tàn
Lại không sụp đổ tiêu tan cửa nhà. (4293 – 4294)

“Huynh đệ tương tàn”: anh em hoặc người cùng một nước tàn sát chém giết nhau.

Ví dụ 5: Thị thành là chốn ăn chơi
Ba que xỏ lá gặp thời “áp phe”
Vai mang gói bạc kè kè
Ma cô đĩ điếm vãn ve tối ngày
Đồng tiền không cánh mà bay
Giật mình tỉnh mộng trắng tay bao giờ. (4691 – 4698)

“Ba que xỏ lá”: một trò cờ bạc bịp bợm; những hạng người lừa lọc bịp bợm, đểu cáng.

“Không cánh mà bay”: tự dưng mất biến đi lúc nào không biết, mất rất nhanh và đột ngột.

Ví dụ 6: Đời tôi trúc chẻ ngói tan
Em tôi còn ở dương gian năm người. (5035 – 5036)

“Trúc chẻ ngói tan”: trúc chẻ là thế chẻ mạnh, chẻ được một mắt thì các đốt sau tự nứt toát hết; ngói tan là thế phá mái ngói, chỉ vỡ một hòn, thì các hòn khác tự xô xuống. Trong câu thơ này ý nói cuộc đời của ông phú hộ đã bỏ đi rồi không còn thể cứu vãn được nữa.

Ví dụ 7: Trời cao đất rộng muôn trùng
Ta đi không thể tháp tùng theo Ta. (6885 – 6886)

“Trời cao đất rộng”: trời cao không vươn tới, đất rộng không đi hết.

Ví dụ 8: Cùng nhau một hội một thuyền
Thương nhau như cắt máu chuyền cho nhau. (6893 – 6894)

“Một hội một thuyền’: cùng chung một hoàn cảnh, một cảnh ngộ hoặc một bè phái phe cánh.

Ví dụ 9: Gặp khi gió táp mưa sa
Nhớ rằng Thầy đã phán qua mọi lời. (7213 – 7214)

“Gió táp mưa sa”: gió đập mạnh, mưa nặng hạt. Chỉ sự phũ phàng của thiên nhiên đối với hoa cỏ cây cối, ngầm chỉ sự vùi dập phũ phàng của cuộc đời đối với thân phận mong manh của con người.

Ví dụ 10: Đánh thôi đất thảm trời sầu
Khắp người toé máu nát nhầu thịt da. (8441 – 8442)

“Đất thảm trời sầu”: cảnh u buồn đau khổ.

IX- CẢI BIÊN THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ:

Đặc biệt là tác giả phối hợp cả phương pháp tách từ, đảo ngữ và cải biên các thành ngữ và tục ngữ một cách hết sức sáng tạo.

1- Đảo ngữ thành ngữ:

Ví dụ 1: Bấy lâu dãi nắng dầm mưa
Quần chưa biến sắc, áo chưa thay màu. (2399 – 2400)

“Dãi nắng dầm mưa” là đảo thành ngữ “dầm mưa dãi nắng”.

Ví dụ 2: Chúa rằng: “Không phải thế đâu
Cháu con tất phải giống màu cha ông
Không giống cánh, cũng giống lông
Chỉ làm những việc tổ tông đã làm. (3785 – 3788)

“Không giống cánh, cũng giống lông” là đảo thành ngữ “Không giống lông, cũng giống cánh”.

Ví dụ 3: Dù ai lớn mật gan lì
Không sao cướp được điều gì nơi Cha. (4239 – 4240)

“Lớn mật gan lì” là cải biên và đảo thành ngữ “to gan lớn mật” chỉ kẻ ương bường liều lĩnh.

Ví dụ 4: Nước Tôi không bởi gian trần
Tôi không mãi mã chiêu quân bao giờ. (8251 – 8252)

“Mãi mã chiêu quân” là cải biên và đảo thành ngữ “ chiêu binh mãi mã” chỉ sự mộ quân mua ngựa, tập hợp lực lượng xây dựng thêm vây cánh.

2. Cải biên thành ngữ:

Ví dụ 1: Âm thầm tính chuyện bôn đào
Ba mươi sáu chước, chước nào hay hơn. (281 – 282)

“Ba mươi sáu chước, chước nào hay hơn” là cải biên thành ngữ “Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn”

Ví dụ 2: Phần thầy dạy các con rằng
Dĩ ác báo ác sao bằng thi ân. (1595 – 1596)

Trong câu thơ trên “Dĩ ác báo ác” là cải biên thành ngữ “Dĩ ân báo oán” là lấy ân đức báo lại oán thù.

Ví dụ 3: Luật truyền: yêu bạn ghét thù
Song Thầy bảo thật: cho dù địch nhân
Hãy yêu chẳng khác người thân
Thi ân cho kẻ vong ân bạc tình. (1605 – 1608)

“Vong ân bạc tình” là cải biên thành ngữ Hán- Việt “Vong ân phụ nghĩa” nói về sự không nhớ đến công ơn những người đã cưu mang giúp đỡ mình, bội phản lại tình nghĩa bấy lâu có được.

Ví dụ 4: Cho dù không phải gà nhà
Chẳng nên chuốt cựa để mà chọi nhau
Ai không ăn trước đá sau
Tức là ủng hộ có đâu ngại gì? (3329 – 3332)

“Ăn trước đá sau” là cải biên thành ngữ “Ăn trước trả sau”

Ví dụ 5: Nầy Ta bảo thật các ngươi
“Một người tội lỗi cải hồi hoàn lương
Thiên thần hoan hỉ phi thường
Reo vui nhộn cả thiên đường khác chi?” (4669 – 4672)

“Cải hồi hoàn lương” là tác giả cải biên thành ngữ “cải ác hoàn lương”.

Ví dụ 6: Lão rằng: “Khốn nạn thân tôi!
Thời gian đâu để đền bồi nữa đây?
Hỡi ơi mang kiếp đoạ đày!
Hết còn trời rộng đất dày kêu than. (5031 – 5034)

“Trời rộng đất dày” là cải biên thành ngữ “Trời cao đất rộng”.

Ví dụ 7: Nàng rằng: “Khổ lắm ông ơi!
Ví dù ông đã cất Người đi đâu
Nghe tôi khẩn thiết van cầu
Xin cho: “Hợp Phố đưa châu trở về. ” (9289 – 9292)

Tác giả đã cải biên thành ngữ “Châu về Hợp Phố” thành câu “Hợp Phố đưa châu trở về”.

X- KỸ NĂNG GHÉP TỪ ĐỂ TẠO CỤM TỪ MỚI:

Đây chính là tính sáng tạo của nhà thơ khi đã nắm bắt được tất cả các thủ pháp sử dụng từ để tạo ra những cụm từ mới giúp cho ngôn ngữ tiếng Việt ngày càng phong phú hơn.

Ví dụ 1: Nếu con yêu kẻ yêu con
Bèo qua đúc lại thì còn công chi. (1615 – 1616)

Tác giả tách từ “qua lại” để ghép với từ “bánh bèo”, “bánh đúc” và cải biên thành ngữ “Bánh ít trao đi bánh quy trao lại” để tạo nên một thành ngữ mới “bèo qua đúc lại”.

Ví dụ 2: Ngoài ra tôi thích từ bi
Ăn gừng trả mật phiền gì anh đâu? (5241 – 5242)

Tác giả cải biên thành ngữ “ăn cám trả vàng” để tạo một thành ngữ mới “ăn gừng trả mật” mà không làm thay đổi nội dung ngữ nghĩa.

Ví dụ 3: Cai- pha hắng giọng lấy oai
Truyền đem can phạm đối khai trước toà.
Hằm hằm một bọn trảo nha
Lôi người bị trói đứng ra giữa phòng. (7861 – 7862)

Từ “đối khai” hàm nghĩa là công khai đối chất.

Từ “trảo nha” hàm nghĩa là bọn nha đinh tra khảo.

Ví dụ 4: “Tôi dù là kẻ vong ân
Ông là tên bợm sát nhân lộng hành
Tôi đem bán máu người lành
Tội tôi quá nặng không đành cam tâm. ”
Cai- pha nghiêm mặt âm trầm
Hội đồng cưởi khỉnh ầm ầm quát lên. (8063 – 8068)

Từ “âm trầm” hàm nghĩa thâm trầm và âm hiểm.

Ví dụ 5: Tha tên ác quỷ hung thần
Trao Con Thiên Chúa cho quân lý hình
Tức thì cả một cơ binh
Mật xà, gan sấu sinh linh coi thường. (8421 – 8424)

Từ “mật xà” là túi mật của con rắn, ý nói là sự ác độc.

Từ “gan sấu” là lá gan của cá sấu, ý nói về sự hung dữ.

Ví dụ 6: Lần đầu lúc Chúa hiện ra
Môn nhân đủ mặt, Tô- ma thiếu mày. (9505 – 9506)

Nhà thơ dùng thủ pháp tách từ “đủ thiếu” và ‘”mặt mày” để ghép thành từ mới là “đủ mặt” và “thiếu mày”.

(còn tiếp)

Được tạo bởi Blogger.