Blaise Pascal (19/6/1623 – 19/8/1662) |
Bài viết liên quan: Thị kiến thần nghiệm đã biến đổi Blaise Pascal
Nhân dịp Vatican mở án phong chân phước cho Blaise Pascal, một triết gia nổi tiếng thế kỷ 17, chúng ta đọc lại một vài tư tưởng để đời của ngài.
1. Ít người nói về sự khiêm tốn một cách khiêm tốn, về nhân đức một cách đức hạnh, về sự hoài nghi một cách ngờ vực.
2. Chẳng mấy tình bạn sống sót nổi nếu mỗi người biết người kia nói gì về mình sau lưng mình.
3. Bạn muốn người ta nghĩ tốt về mình không? Vậy đừng nói tốt về bản thân mình.
4. Những lời tử tế không tốn bao nhiêu. Chúng không bao giờ làm bỏng giộp môi lưỡi. Chúng khiến người khác tốt lành. Chúng cũng tạo nên hình ảnh của chính chúng trong tâm hồn con người, và đó là một hình ảnh tươi đẹp.
5. Trái tim có lý lẽ mà lý trí không biết đến.
6. Trong thời gian khó khăn, hãy mang theo điều gì đó đẹp đẽ trong tim.
7. Trí tuệ thông suốt cũng có nghĩa là đam mê thông suốt; đó là vì sao một trí tuệ vĩ đại và thông suốt yêu say đắm và thấy rõ tình yêu là gì.
8. Chúng ta chẳng bao giờ bám chặt lấy hiện tại. Chúng ta gợi lại quá khứ; chúng ta chờ đợi tương lai như thể ta cảm thấy nó đến quá chậm và vì vậy cố gắng thúc giục nó đến nhanh hơn, hoặc chúng ta gợi lại quá khứ như thể muốn làm chậm đà bay vun vút của nó. Chúng ta thiếu sáng suốt đến nỗi lang thang trong những đoạn thời gian không thuộc về mình, và không nghĩ về đoạn thời gian duy nhất thuộc về mình; hão huyền đến nỗi mơ về những đoạn thời gian không tồn tại và mù quáng chạy trốn đoạn thời gian duy nhất tồn tại. Sự thực là hiện tại thường đau đớn.
9. Tính kiêu căng tự đại neo chắc trong trái tim con người đến nỗi một người lính, một thường dân đi theo quân đội, một người đầu bếp hay một người gác cổng cũng sẽ khoe khoang và muốn sự thán phục, và thậm chí ngay cả các triết gia cũng muốn nó; những người viết chống lại nó muốn có được danh vọng vì đã viết hay, những người đọc muốn có được danh vọng vì đã đọc, và có lẽ chính tôi người viết những dòng này cũng muốn điều đó.
10. Họ ưa chiến tranh hơn hòa bình, người khác lại thà chết cũng không muốn chiến tranh.
11. Nhưng bởi những giấc mơ đều khác nhau, và có sự phong phú thậm chí ngay cả trong từng giấc mơ, điều ta thấy ở chúng ảnh hưởng lên ta ít hơn nhiều điều ta thấy khi tỉnh giấc, bởi vì sự tiếp nối. Tuy nhiên sự tiếp nối cũng không đến mức nó không thay đổi, dù ít đột ngột hơn, trừ trong những dịp hiếm hoi, như vào một chuyến hành trình, khi ta nói: 'Cứ như thể là mơ.' Bởi cuộc đời là một giấc mơ, nhưng ít đổi thay hơn đôi chút.
12. Nếu chúng ta kiểm tra suy nghĩ của mình, chúng ta sẽ thấy chúng luôn luôn hướng về quá khứ và tương lai.
13. Thấu hiểu chính là tha thứ.
14. Chỉ có hai loại người: người có đạo đức nghĩ mình là tội đồ và kẻ tội đồ nghĩ mình có đạo đức.
15. Tôi càng nhìn nhân loại, tôi càng thích chú chó của mình hơn.
16. Con người chẳng bao giờ gây điều ác hoàn toàn và một cách vui vẻ như khi họ làm điều đó vì niềm tin tôn giáo.
17. Tất cả phẩm cách của chúng ta nằm ở trong suy nghĩ. Đây là nền cơ bản mà ta phải dùng đề phát triển bản thân, chứ không phải không thời gian, thứ ta không biết phải làm thế nào để lấp đầy. Vậy nên hãy lấy việc suy nghĩ chính đáng làm nhiệm vụ: đây là nguyên tắc của đạo đức.
18. Chúng ta biết sự thật không chỉ qua lý trí, mà còn qua con tim.
19. Lời tử tế không đáng bao nhiêu. Nhưng chúng làm được nhiều.
20. Con người tất yếu điên rồ, đến nỗi không điên rồ sẽ tương đương một hình thái điên rồ khác.
21. Con người tìm kiếm sự nghỉ ngơi giữa cuộc đấu tranh chống lại nghịch cảnh; và khi họ chiến thắng nghịch cảnh, nghỉ ngơi trở nên không thể chịu đựng nổi.
22. Bằng không gian, vũ trụ bao quanh và nuốt trọn tôi như một nguyên tử; bằng tư duy, tôi lĩnh hội thế giới.
23. Đúng là thật tồi tệ khi đầy khuyết điểm; nhưng còn tồi tệ hơn khi đầy khuyết điểm mà không sẵn lòng nhận thức chúng.
24. Trí tưởng tượng của chúng ta rất phóng đại hiện thực, bởi ta luôn nghĩ về nó, và vì vậy mà hạ thấp vĩnh hằng, bởi ta không nghĩ về nó, khiến ta biến vĩnh hằng thành hư vô và hư vô thành vĩnh hằng.
25. Ta thường luôn thán phục những gì ta thực sự không hiểu.
26. Bước cuối cùng của lý trí là nhận ra có vô hạn những điều vượt ra khỏi nó.
27. Công lý không có quyền lực là không có sức mạnh; quyền lực mà không có công lý là bạo ngược hung tàn.
28. Công lý, sức mạnh. – Rất đúng rằng điều gì công bằng cần phải được tuân theo; rất cần thiết rằng điều gì mạnh nhất cần phải được phục tùng. Công lý không có sức mạnh là bất lực; sức mạnh không có công lý là bạo ngược. Công lý không có sức mạnh bị chống đối, bởi luôn luôn có kẻ vi phạm; sức mạnh không có công lý bị lên án. Vì vậy chúng ta cần kết hợp công lý và sức mạnh, và để đạt được điều này, hãy khiến điều công bằng trở nên mạnh mẽ, và điều mạnh cần đảm bảo công bằng.
29. Con người chẳng bao giờ làm điều ác một cách toàn diện và vui vẻ hơn khi họ làm điều ác dưới niềm tin tôn giáo.
30. Thứ không thể hiểu nổi không ngừng tồn tại.
31. Ngôn từ được sắp đặt khác nhau có những ý nghĩa khác nhau, và những ý nghĩa được sắp đặt khác nhau có những hiệu quả khác nhau.
32. Đức hạnh của con người không nên được đo bằng những nỗ lực đặc biệt, mà bằng hành động thường ngày.
33. Chức năng cuối cùng của lý trí là nhận ra những điều vượt lên nó là vô cùng.
34. Cái ác chẳng bao giờ được thực hiện một cách hoàn toàn như khi nó được thực hiện với một thiện chí tốt.
35. Dục vọng là nguồn gốc của tất cả mọi hành động, và nhân loại.
36. Bất cứ ai không thấy được sự phù phiếm của thế giới, chính bản thân mình rất tự đại. Vậy ai không thấy nó, ngoài những người trẻ tuổi mà cuộc đời là tất cả những tiếng động, những trò tiêu khiển, và những suy nghĩ cho tương lai?
37. Sự nhạy cảm của con người đối với những điều nhỏ bé và thiếu nhạy cảm đối với những điều lớn lao là dấu hiệu của một loại rối loạn kỳ lạ.
38. Bản tính con người là động; tĩnh hoàn toàn là cái chết.
39. Trái tim có trật tự của nó, trí tuệ cũng có trật tự của nó, một trật tự sử dụng nguyên tắc và minh chứng. Trật tự của trái tim thì khác. Chúng ta không chứng minh rằng chúng ta đáng được yêu bằng cách liệt kê các nguyên nhân của tình yêu; như thế chỉ là ngớ ngẩn.
40. Con người hầu như luôn luôn tìm đến niềm tin của mình không phải trên cơ sở của minh chứng mà trên cơ sở của điều họ cảm thấy thu hút.
(Bà Chảnh sưu tầm)
Blaise Pascal là nhà toán học, vật lý, nhà phát minh, tác gia và là triết gia Công giáo người Pháp. Tên của Pascal được dùng đặt cho đơn vị áp suất, một ngôn ngữ lập trình và tên một miệng núi lửa trên Mặt trăng.
Lý thuyết toán xác suất là đóng góp có nhiều ảnh hưởng nhất của Pascal cho toán học, có ảnh hưởng sâu đậm tới sự phát triển của kinh tế học và khoa học xã hội đương đại. Ông cũng có một số nghiên cứu tiên phong về máy tính, phát minh máy tính cơ học (gọi là máy tính Pascal, về sau gọi là Pascaline). Trong văn học, ông là một trong những tác gia quan trọng nhất của thời kỳ cổ điển Pháp. Nhiều cây bút chính luận chịu ảnh hưởng của văn phong trào phúng và dí dỏm mà ông sử dụng.
Năm 1962, nước Pháp làm lễ kỷ niệm 300 năm ngày mất của Blaise Pascal. Nhiều hoạt động đã được tổ chức để tưởng nhớ ông như phát hành tem thư, triển lãm, thuyết trình về triết học, toán học và văn học... Qua các bài diễn văn, các Viện Sĩ Louis de Broglie, Francois Mauriac đã ca ngợi Blaise Pascal là một thiên tài của Nhân Loại đã cống hiến cả cuộc đời cho khoa học và triết học.
-------------------------
Đức Phanxicô ủng hộ việc phong thánh triết gia Pháp Blaise Pascal
rfi.fr, Olivier Bonnel, 2017-07-09
Trong một cuộc phỏng vấn với ký giả lão thành Ý Eugenio Scalfari, Đức Phanxicô cho biết ngài ủng hộ việc phong thánh cho triết gia người Pháp Blaise Pascal. Ký giả Eugenio Scalfari là nhà sáng lập nhật báo La Repubblica. Blaise Pascal là triết gia nổi tiếng và là nhà toán học Pháp của thế kỷ 17.
Đức Phanxicô trả lời với ký giả Eugenio Scalfari: “Tôi, tôi nghĩ triết gia Pascal xứng đáng được phong thánh. Tôi dự định tiến hành các thủ tục cần thiết và hội ý với Bộ Phong thánh về vấn đề này theo xác tín cá nhân của tôi”.
Trong cuộc phỏng vấn, ký giả kể cho Đức Phanxicô, trong những ngày cuối cùng của Blaise Pascal, ông muốn chết ở bệnh viện giữa những người nghèo.
Nếu chủ đề nghèo khó là chủ đề thiết thân của Đức Giáo hoàng, thì chọn lựa này của giáo hoàng Dòng Tên có thể gây ngạc nhiên: Blaise Pascal là hình ảnh của người theo thuyết Giăngxen chủ trương đạo lý khắc khổ của thế kỷ 17, ông cũng là một trong những người gièm pha Dòng Tên nhiều nhất. Các bài viết “Provinciales” của ông ở trong danh sách cấm của giáo hoàng. Nhưng vượt lên các tranh cãi, sự đóng góp về mặt đạo đức và thiêng liêng, cũng như tính chính xác chặt chẽ về mặt tri thức của ông đã từ lâu được các giáo hoàng mến chuộng: vì thế Blaise Pascal được trích trong rất nhiều thông điệp hay tài liệu giáo hoàng, từ Đức Phaolô VI đến Đức Bênêđictô XVI. Với việc phong thánh đầy hy vọng này, Đức Phanxicô mong sẽ đi xa hơn.
Pascal sinh năm 1623 ở Auvergne, ông có một trí tuệ bẩm sinh thiên phú, từ tuổi vị thành niên ông đã tranh luận với các nhà toán học lớn nhất, Blaise Pascal trở thành một người công giáo day dứt sau khi ông có một kinh nghiệm thần bí năm 31 tuổi. Sức khỏe yếu, ông thường có những cơn đau đầu khủng khiếp, ông qua đời năm 1662, lúc ông mới 39 tuổi, ông chưa có thì giờ kết thúc bài ca tụng tư tưởng kitô giáo, mà bản thảo được xuất bản sau khi ông qua đời có tên Tư tưởng (Pensées).
Trong tác phẩm này, ông trình bày “cá cược” của mình, ông giải thích chẳng có gì để mất, nhưng thắng tất cả nếu tin vào Chúa.
Cản trở có thể có
Ngoài một tuổi trẻ tự phụ và thời thượng, các bài viết dữ dội “Provinciales” ủng hộ thuyết Giăngxen trong cuộc đấu tranh thần học với các tu sĩ Dòng Tên có thể làm trở ngại cho vụ phong thánh. Nhưng với cuộc bầu chọn giáo hoàng Dòng Tên đầu tiên tháng 3-2013, thì mọi chuyện có thể thay đổi.