Vẫn biết rằng, vạn vật trong vũ trụ, có sinh là có tử. Vậy mà nghe tin Đức cha Fx. Nguyễn Văn Sang, nguyên Giám mục Thái Bình đã trút hơi thở cuối cùng chiều 5-10-2017, tôi vẫn không thể kìm được nước mắt. Bao nhiêu kỷ niệm với Ngài suốt 25 năm tôi hân hạnh được quen biết và cộng tác với Ngài bỗng nhiên vụt hiện về như tua một cuốn video vậy.
Những năm cuối thập niên 80, cuốn “Bước đường hành hương” của Ngài đang gây sốt với nhiều người. Thời ấy, người ta còn đang lo chạy ăn, chạy mặc, mấy người được đi ra nước ngoài, nên những ghi chép của Ngài về vùng Đất thánh, về Rôma, Paris, về chuyện bầu Giáo hoàng, tang lễ của Giáo hoàng quả là rất lạ nhất là với người Công giáo. Là người làm báo, tôi cũng say sưa đọc “Bước đường hành hương”. Bên cạnh cái khen, tôi cũng thấy có một số điểm góp ý với tác giả. Tôi viết tay bản phê bình cuốn sách và gửi trước cho Ngài khi đăng báo (lúc đó chưa có máy tính). Ngài mời tôi về Thái Bình. Thế là từ chuyện văn chương, Ngài kết thân với tôi và gọi tôi là “bạn tâm giao”. Ngài là người đọc nhiều và viết cũng nhiều. Tôi đi nhiều chuyến bay cùng Ngài. Lên máy bay, sau khi đọc kinh nguyện xong là Ngài đọc hết tờ báo này đền tờ báo khác. Không phải đọc chơi để ngủ hay giải trí mà có ghi chép, đánh dấu cẩn thận. Đến thăm bất cứ danh thắng nào cũng thế, Ngài xin poster, rồi ghi chép. Vì vậy đi bất cứ nước nào, về nhà Ngài cũng có một cuốn sách mới ra đời. Đến nay, Ngài đã có gần 100 đầu sách trong đó có nhiều cuốn được xuất bản chính thức như “Bước đường hành hương” (3 tập, Nxb Hà Nội), “Hành hương và Thăm viếng” (2 tập, Nxb Hội nhà văn), “Đối thoại Tôn giáo” (3 tập, Nxb Tôn giáo), “Đời dâng hiến” (Nxb Tôn giáo) …Ngài không tránh né báo chí, vì vậy sau mỗi chuyến Ngài đi Rôma về, chúng tôi lại phỏng vấn Ngài và bạn đọc rất thích thú vì biết được nhiều chuyện như nhân sự của các Tòa Giám mục bị trống hay những nội dung quan trọng của các kỳ họp Thượng Hội đồng Giám mục vì hồi đó đâu có internet như bây giờ.
Ngài có cách ứng xử mềm dẻo. Tết nào, Ngài cũng cùng tôi đi đến một số cơ quan ở Trung ương để chúc Tết. Trong câu chuyện xã giao bao giờ Ngài cũng có đề nghị liên quan đến tôn giáo. Ví dụ, khi thăm Ban Tôn giáo, Ngài đề nghị cho mở trường để đào tạo những tu sĩ cao tuổi. Ban Tôn giáo nói, nếu là linh mục chưa hợp thức thì mới được gửi đi Sao Biển, Nha Trang. Ngài bảo, vậy Thái Bình không phong chui linh mục nên thiệt thòi, nên tôi về sẽ phong chức ngay đêm nay. Vậy là Ban Tôn giáo phải đồng ý cho Ngài mở lại chủng viện Mỹ Đức. Các dòng tu, các giáo xứ ở Thái Bình cũng được công nhận hợp pháp là nhờ thế. Tuy nhiên, Ngài cũng thẳng thắn đấu tranh. Lúc Ngài là Chủ tịch Ủy ban giáo dân, Ngài muốn có một địa điểm rộng rãi để tập hợp giới trẻ là mượn sân vận động Mỹ Đình nhưng Nhà nước lo vấn đề an ninh không đảm bảo. Ngài nói, nước ta vẫn tự hào là an ninh nhất thế giới mà tại sao lại sợ giới trẻ Công giáo? Thế là họ đồng ý cho Ngài được rước Thánh giá giới trẻ luân phiên trong các giáo phận của miền Hà Nội.
Khi xảy ra sự kiện Tòa Khâm sứ và 182 Nguyễn Lương Bằng, theo lời đề nghị của Đức TGM Ngô Quang Kiệt và cha Bề trên Vũ Khởi Phụng, Ngài chạy đi chạy lại giữa các cơ quan Nhà nước và Tòa Giám mục, dòng Chúa Cứu thế Hà Nội để mong tìm ra giải pháp hạ nhiệt “bớt củi lửa”. Tôi nhớ, có khi 11 giờ đêm, tôi vẫn cùng Ngài vào Thái Hà để trao đổi. Nhưng rồi do nhiều nguyên nhân, căng thẳng vẫn xảy ra. Ngài không ngại tránh né, nhiều lần đến viếng thăm Tòa Khâm sứ, phố Đức Bà (ảnh trên). Ngài thường xuyên viết bài đăng trên Vietcatholic để phản đối những ý kiến cho rằng Nhà thờ lớn Hà Nội chiếm đất chùa Báo Thiên. Ngài còn lên tiếng bênh vực phát biểu của Đức TGM Giuse. Các sự kiện như phong 117 thánh Tử đạo Việt Nam, Thánh giá Đồng Chiêm thậm chí ý kiến trên các báo Nhà nước có sai lạc, Ngài đều viết bài phản biện lại và “sẵn sàng đi tù” nếu đó là vi phạm pháp luật. Những bài này tập hợp trong 10 tập “Hồi ký của một Giám mục cao tuổi” phát hành nội bộ sau khi Ngài đã nghỉ hưu.
Khi xảy ra sự kiện Tòa Khâm sứ và 182 Nguyễn Lương Bằng, theo lời đề nghị của Đức TGM Ngô Quang Kiệt và cha Bề trên Vũ Khởi Phụng, Ngài chạy đi chạy lại giữa các cơ quan Nhà nước và Tòa Giám mục, dòng Chúa Cứu thế Hà Nội để mong tìm ra giải pháp hạ nhiệt “bớt củi lửa”. Tôi nhớ, có khi 11 giờ đêm, tôi vẫn cùng Ngài vào Thái Hà để trao đổi. Nhưng rồi do nhiều nguyên nhân, căng thẳng vẫn xảy ra. Ngài không ngại tránh né, nhiều lần đến viếng thăm Tòa Khâm sứ, phố Đức Bà (ảnh trên). Ngài thường xuyên viết bài đăng trên Vietcatholic để phản đối những ý kiến cho rằng Nhà thờ lớn Hà Nội chiếm đất chùa Báo Thiên. Ngài còn lên tiếng bênh vực phát biểu của Đức TGM Giuse. Các sự kiện như phong 117 thánh Tử đạo Việt Nam, Thánh giá Đồng Chiêm thậm chí ý kiến trên các báo Nhà nước có sai lạc, Ngài đều viết bài phản biện lại và “sẵn sàng đi tù” nếu đó là vi phạm pháp luật. Những bài này tập hợp trong 10 tập “Hồi ký của một Giám mục cao tuổi” phát hành nội bộ sau khi Ngài đã nghỉ hưu.
Có lần, một vị cán bộ cao cấp về gặp Ngài xin cho lập Ủy ban ĐKCG ở Thái Bình. Ngài nói: Thái Bình không có Ủy ban đoàn kết thì thua kém các nơi có Ủy ban cái gì? Ở đây, mọi thứ từ từ thiện, an ninh, sản xuất, giao thông tôi đều có Thư chung nhắc nhở cả, vậy sinh ra Ủy ban làm gì cho phức tạp. Do đó, đến nay Thái Bình vẫn không có Ủy ban này. Vị cán bộ nọ cũng muốn Ngài khi nghỉ hưu sẽ tham gia MTTQ hay Quốc hội và như vậy sẽ giải thể Ủy ban ĐKCG ngay. Ông cũng hứa hẹn quyền lợi này nọ nhưng Ngài đã dứt khoát chối từ. Ngài cũng quen biết nhiều cán bộ cao cấp nhưng không bao giờ nhờ vả. Một ông tướng công an cho Ngài số điện thoại nói có việc gì cần cứ gọi. Hôm đi Lạng Sơn dự lễ khánh thành nhà thờ Cửa Nam, xe phóng quá tốc độ bị cảnh sát giữ lại. Anh lái xe hoảng hốt xin Ngài gọi cho ông tướng công an. Ngài bảo viên cảnh sát giao thông: Nếu lái xe sai xin cứ phạt để nhắc nhở, tất nhiên xe của tôi và lái xe cho tôi nên tôi bỏ tiền ra chứ không nhờ ông tướng công an đâu. Nghe nói thế, viên cảnh sát chỉ nhắc nhở và cho đi.
Ngài cũng thẳng thắn nói với vị Hồng y Bộ trưởng Truyền giáo muốn Ngài nhận một nhân sự ở phía Nam ra kế vị. Ngài bảo: Nếu là ý Đức Thánh cha thì con vâng, còn nếu là của Bộ thì con phải trao đổi lại. Ngày xưa, miền Bắc không được học hành thì đưa miền Nam ra là đúng nhưng bây giờ miền Bắc cũng du học tiến sĩ cả sao không đưa vào miền Nam mà cứ đưa người miền Nam ra miền Bắc. Đức Hồng y phải mời Ngài qua Rôma để trao đổi và chấp nhận ý kiến của Ngài.
Ngài viết nhanh, viết nhiều nhưng không có thời gian đọc lại nên cũng có nhiều lỗi phải chỉnh sửa. Ngài hay nhờ tôi biên tập và viết lời giới thiệu cho các tập sách của Ngài. Khi in bộ “Hành hương và Thăm viếng”, Nhà xuất bản cũng lo ngại vì đụng đến Công giáo họ ngại lắm. Họ bắt tôi viết nhận xét cam đoan không có vấn đề chính trị. Nhưng khi in ra, họ đều công nhận hay và muốn mời Ngài vào Hội nhà văn nhưng Ngài cũng khước từ.
Ngài giao du với các nhà nghiên cứu Tôn giáo khá nhiều. Ra cuốn sách nào, Ngài lại nhờ tôi biếu các GS.TS, kể cả quan chức cấp cao. Vì vậy, các buổi hội thảo phối hợp với Tòa TGM Huế từ năm 1989 đến năm 2005 rất thành công thu hút cả ngàn người tham dự và có khi kéo dài tới 3 ngày. Rồi còn hội chợ ăn uống. Ngài phải lo kinh phí mỗi lần vài ba trăm triệu nên cũng rất tiết kiệm. Khi đi về, tôi cùng Ngài và mấy cha đi xe từ Hà Nội vào nhưng các nhà nghiên cứu thì Ngài lo vé máy bay chu tất. Có lần, tôi đã mua vé cả khứ hồi cho họ nhưng Ngài lại đưa thêm tiền vé. Tôi đề nghị lấy lại, Ngài bảo thôi, để họ mua quà cho con. Mời họ tham gia là quý rồi. Nhờ vậy, lúc đầu mời mấy ông GS.TS ngoài Công giáo, ngại lắm. Nhưng về sau, ai cũng muốn tham gia.
Khi về Thái Bình, có người vẫn cho rằng Ngài sẽ quay lại Hà Nội. Nhưng ngày Ngài qua phà Tân Đệ năm 1990, Ngài đã quỳ xuống hôn mảnh đất này và coi như quê hương của mình. Ngài nói với tôi, về hưu Ngài muốn xuống trại phong Vân Môn để ở với những người phong cùi. Năm nào, Ngài cũng đến đây dâng lễ đầu năm với họ rồi lo xây dựng cơ sở vật chất cho trại từ điện, nước đến đường đi và cả nhà nguyện nữa. Có nhớ Hà Nội lắm thì xây hồ Phanxicô Xavie có bóng dáng hồ Hoàn Kiếm ở khuôn viên Tòa Giám mục và hàng tuần về Hà Nội không phải để đỡ nhớ Hà thành mà để làm việc vì Ngài nói, ở nhà khách khứa nhiều quá không viết được. Thứ hai Ngài lên, thứ năm lại về. Chầu, lễ ở đâu cũng muốn Ngài giảng. Ngài giảng đơn sơ, dễ hiểu nhưng hùng hồn và tình cảm. Cám ơn thì không thiếu một ai, từ ông coi xe đến bà vệ sinh nên ai cũng thích. Ngài cũng ưa hình thức hoành tráng nên đi đâu là kèn trống vang lừng. Thái Bình có lẽ vậy cũng nhiều hội kèn, hội trống nhất là hội kèn nữ nổi tiếng nhất phía Bắc nên thường được mời tham dự lễ hội La Vang.
Khi xây nhà thờ chính tòa Thái Bình, Ngài lo lắng tìm kinh phí khắp nơi. Chạy vạy bao lần ra nước ngoài, qua các Trung tâm hành hương quốc tế để xin lại bổng lễ. Thế nhưng nơi nào khó khăn, Ngài lại sẵn sàng chia sẻ cho. Công trình nhà thờ chính tòa Thái Bình khánh thành năm 2007 là một dấu ấn của Ngài. Nhưng Ngài không chỉ có thế, bao nhiêu giếng nước khoan, bao nhiêu quỹ tín dụng cho người nghèo, bao phòng khám từ thiện ở Thái Bình đều có công sức của Ngài. Bởi vậy, tuần trước, tôi có phản biện kín cho một luận án Tiến sĩ Tôn giáo học về giáo phận Thái Bình của một sĩ quan công an. Tôi ghi: nói tới Thái Bình mà không nói nhiều đến Giám mục Nguyễn Văn Sang là thiếu sót. Anh ta đã chấp thuận bổ sung vào.
Ngài hay ngủ sớm. 9 giờ tối là đã buồn ngủ nhưng 1 giờ sáng đã dậy để xem bóng đá vì Ngài mê bộ môn này. Nếu không có bóng đá thì làm việc cho đến 5 giờ là kinh nguyện, dâng lễ. Sức làm việc của Ngài thật phi thường. Khi tôi làm Thư ký Ủy ban giáo dân cho Ngài, chạy theo Ngài cũng mệt muốn đứt hơi. Có lần qua Hoa Kỳ, làm việc xong đã quá muộn, Ngài nằm nghỉ ngay trên ghế đá như những người lang thang. Tôi vô cùng xúc động hình ảnh này như đã từng xúc động thấy Ngài cõng người tàn tật lên lễ đài hay bón cơm cho người khuyết tật trong ngày lễ cầu cho bệnh nhân.
Giáo dân Việt Nam vốn quý trọng các đấng bậc nhưng tôi thấy giáo dân quý trọng Ngài thật sự. Đi đến đâu, họ cũng chen nhau hò reo, vỗ tay và xin chụp ảnh kỷ niệm với Ngài. Ngài quen lương y Phạm Cao Sơn nhưng không muốn phiền hà vì đến nhà chắc chắn lương y không lấy tiền nên sai người khác vào mua thuốc. Một hôm lương y mời Ngài đến thăm nhà. Ngài bảo, tôi biết nhà ông rồi nhưng tôi ở ngoài ngõ. Cử chỉ này làm cho lương y vô cùng cảm phục các đấng bậc như Ngài hay Đức TGM Ngô Quang Kiệt và đã làm cho nhiều thành viên của gia đình ông trở lại đạo Công giáo.
Kể từ ngày Ngài bị đột quỵ tháng 4-2015 đến lúc Ngài qua đời ngày 5-10-2017, đủ mọi thành phần tôn giáo, xã hội đều đến thăm Ngài. Đức TGM Ngô Quang Kiệt nhiều lần về thăm Ngài và cũng là người đầu tiên đến viếng Ngài trước khi nhập quan ngày 6-10-2017. Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ truyền lấy giày, mũ áo mới của Đức cha đưa cho Ngài vì đồ của Ngài cũ quá rồi.
Khi viết, Ngài lấy nhiều bút hiệu như Tông Đồ, Người Quan Sát, Bạch Lạp. Trong tập thơ nhạc “Đời dâng hiến”, có bài thơ của cụ Lan Chi Nguyễn Thượng Xứng, cháu danh nhân Nguyễn Thượng Hiền vịnh “Cây nến trắng- Bạch Lạp”:
Thân trắng trong mà lòng trắng trong
Đêm đêm giọt lệ nhỏ ròng ròng
Muốn vì nhân thế đem nguồn sáng
Rút ruột khêu lên ngọn lửa hồng.
Vâng ngọn nến trắng Fx. Nguyễn Văn Sang đã cháy đến giọt cuối cùng để thắp sáng cho đời, cho Giáo hội. Xin vì lòng Chúa hay Thương xót đón nhận tôi tớ của Người là Đức cha F.X Nguyễn Văn Sang về nơi nước Chúa.
Hà Nội, ngày tiễn biệt Đức cha Phanxicô Xaviê