Mã số: 17-026
 
Gần hai giờ sáng, màn sương đêm phủ đầy khu phố ngoại ô. Ánh sáng nhờ nhợ của vài ngọn đèn đường lẻ loi chỉ đủ khiến cây thánh giá trên tháp chuông nhà thờ hiện lên lờ mờ, tôi tối. Những con người quanh năm đầu tắt mặt tối đang vùi mình vào giấc ngủ trong những căn nhà cũ kĩ. Đêm nay, nhà thờ có vị khách lạ, ả ngồi tựa lưng vào chiếc cổng sắt cũ rỉ ngay cổng chính. Ả đã ngồi đó từ lâu lắm rồi, thấp thỏm, lo âu, sợ hãi… Ả đang mong ngóng điều gì đó...

Tiếng xe máy gầm lên, xé tan cái u tịch của khu phố. Một đoàn xe Win đủ loại rồ ga, phóng vèo rồi tấp vào ngay cổng nhà thờ. Tắt máy! – Cứu tôi… - tiếng la thất thanh của người khách lạ ré lên, cụt ngủn, tắt lịm sau mấy tiếng “Á…áaaa” nghe kinh rợn. Đám người lạ mặt chẳng nói chẳng rằng, chỉ thấy lóe lên ánh kim loại sáng chóe vung quật xuống liên hồi. Im bặt! Một thằng đứng chống nạnh, hất hàm: “Dám phản bội, dám bỏ trốn à?!”. Tiếng xe máy lại rú lên, lướt vèo vào màn đêm, bặt tích. Tiếng chó sủa đanh lên, liên hồi. Từ phía nhà thờ có ánh đèn, vị linh mục già, gầy guộc lật đật tiến ra. Hiện lên trong ánh đèn pin lòe lòe của vị linh mục, một người con gái nằm bất động trên vũng máu tươi, tanh ngòm…
***
Mụ Tú Béo bỗng chốc trở nên đắt hàng. Đám đại gia, dân chơi tới tấp liên hệ để xin được tiếp cận với đứa “con gái” mới của mụ. Chẳng biết mụ kiếm đâu được một món hàng “ngon” đến thế: Hồng Tâm. Hồng Tâm cao, dáng thon thả, làn da hồng trắng nõn nà, trinh khiết… Thật là không tì vết! Khuôn mặt trái xoan với hai lúm đồng tiền cân đối. Lấp ló sau bờ môi mỏng, đều đặn, lúc nào cũng hồng hồng, căng mọng, mời gọi kia là hàm răng trắng đều, cuốn hút, rất duyên! Hai gò má hơi cao phơn phớt hồng ôm lấy cái sống mũi chẳng cần quá cao nhưng cũng đủ cho người ta không muốn rời mắt. Huyền ảo sau hai hàng mi dầy cong là cặp mắt đen láy, to, tròn, lấp láy như màn sương mỏng ươn ướt, bí ấn và lôi cuốn đến mê hồn… Mái tóc cuốn đuôi gà dầy, mượt thả vừa hết bờ vai thon. Cái dáng thướt tha, cái thân hình đầy đặn vừa đủ, lại thêm cái giọng Bắc dịu, ấm áp được phát ra từ cái miệng duyên duyên, xinh xinh mấp máy khiến ai cũng phải sững người, xuýt xoa, nuốt nước bọt… Sự ngây thơ, trong trắng, hồn nhiên của một thiếu nữ nhà quê, chân phương, mới ngày nào, giờ đã bị người ta giật mất. Đôi mắt em đượm buồn, chất chứa u sầu, cay đắng, tủi hờn… Nhưng nào ai thèm quan tâm! Người ta tìm đến em, quấn lấy em, bóp nghẹt em… Chúng chỉ muốn chiếm đoạt em, cướp lấy, giật lấy từ em những gì làm thỏa mãn cơn khát khoái cảm của chúng, nào đâu biết thế nào là tình yêu, thế nào là hạnh phúc! Em như món hàng ngon, ăn một lần, thèm, ăn thêm lần nữa… Thế thôi!
***
Một chiều nọ đi khách, chiếc taxi, chở một tay vệ sỹ đang ngồi sát bên em, dừng lại trước cột đèn đỏ sát ngay bên ngôi nhà thờ cũ cũ. Em vẫn vậy, tấm thân bất động, không cảm xúc, tâm hồn bay bay vào miền cay đắng. Chợt thấy hạt mưa bay, em thấy nhớ mùa thu quê mình. Em nhẹ đưa tay ấn nút hạ tấm kính cửa xe, làn gió nhẹ lùa vào bất chợt, em nhắm mắt, cảm nhận cái tê tê, lành lạnh trên khuôn mặt. Tiếng nhạc du dương đâu đó tràn vào theo làn gió: …Năm xưa trên cây sồi, làng Fatima xa xôi…. Em giật mình! Ngước mắt lần theo tiếng hát, em bắt gặp ngay bức tượng Đức Mẹ đang dang rộng đôi tay về phía em, trên đó là tràng chuỗi Mân côi đang đung đưa theo làn gió… Chiếc xe khẽ chuyển bánh. Em có biết đâu: tháng Mân côi vừa chớm! Bất giác, em rùng mình, vội vã quay mặt đi, mắt nhắm nghiền. Tiếng hát như cố với theo em, cố len lỏi vào tận sâu đáy tâm hồn tưởng như đã khô cằn, đã băng giá từ lâu, chạm tới vùng kí ức tưởng như đã chết ngộp bấy lâu… Nước mắt em chợt ứa…!
- Con có thuộc bài hát Đạo nào không vậy? – Cha già nhìn con bé trìu mến.
Con bé nãy giờ vẫn khép nép bên bà mẹ hiền hậu, hai tay khoanh tròn trước ngực ngoan ngoãn, nghe thấy cha hỏi về bài hát với ánh mắt thương thương, nó tươi hẳn lên. Tiến lên một bước như để thoát khỏi sự gò bó của mẹ nó:
- Dạ thưa cha, con chỉ thuộc mỗi bài “Năm xưa trên cây sồi” thôi ạ!
Mẹ nó phì cười vì sự hồn nhiên của nó. Cha già thích thú, nhoẻn miệng cười, cúi người, nghiêng tai sát về phía con bé:
- Thế con hát cho cha nghe thử xem thế nào, nhé!
Con bé khẽ ngước mắt nhìn lên mẹ nó, chỉ chờ mỗi cái gật đầu kèm nụ cười khích lệ, nó liền hít thật sâu, lấy hơi rồi cất lên tiếng hát: Năm xưa trên cây sồi…. Giọng hát trong veo, lanh lảnh, ngây ngô, hồn nhiên của con bé khiến vị linh mục già cứ đong đưa cái đầu, đôi mắt nhắm hờ, tâm hồn tưởng như đến được một cõi nguyên khôi… Con bé hát xong, cha già vỗ tay liên hồi, khen tấm tắc, khiến con bé sung sướng cười típ mắt, chạy lại ôm chân mẹ, hạnh phúc. Cha già hí hửng chạy vào phòng, lấy ra một quả chuối tiêu to vừa chín tới đưa cho con bé.
- Thế con có biết câu chuyện về bài hát vừa rồi không?
- Dạ…không, thưa cha cố! - Con bé ngập ngừng, lại ngước mắt nhìn mẹ nó, cầu cứu.
- Đây nhé! Cha kể cho con nghe: ngày trước, tại làng có tên là Fatima,…
- Tới rồi, xuống đi. – Giọng gã vệ sỹ thô cằn chặn đứng giòng ký ức đang tuôn chảy trong tâm trí em: cái khung cảnh của ngày đầu tiên em được mẹ dẫn đến gặp cha xứ để xin được đi tu, vèo tan biến! Vội gạt nước mắt, bước xuống xe, ngước mắt nhìn lên khách sạn xa hoa, cao vút… Bước chân em ngập ngừng… Trút một hơi thở dài: “Có dừng lại được đâu”, rồi em lại đè tiếp những bước chân lên các bậc cấp…
***
Tin bà Ân bị tai nạn thoáng cái đã truyền ra khắp xóm đạo nghèo khổ. Kẻ nào nghe tin cũng buột miệng “Giêsu Maria” xót xa, sửng sốt. Năm mươi triệu, nộp gấp để phẫu thuật! Bệnh viện người ta bảo thế. Bây giờ biết làm sao? Chồng mất, mình bà tần tảo nuôi bốn đứa con gần chục năm nay. Ở cái xứ quê quạnh này, cả gia tài bán đi cũng chẳng được mấy đồng, nói chi tới số tiền lớn như thế. Cả họ nhà bà Ân họp lại, gom góp, cũng chẳng góp đủ tiền để đi nộp gấp. Nhìn cảnh con bé Hồng Tâm, đứa con gái lớn đẹp người tốt nết của bà Ân, cứ nép ở góc nhà, khóc nức nở quanh ba đứa em mếu máo: “Cháu xin các bác, các bá, mọi người hãy cứu lấy mẹ cháu….hức..hư.ư.ứư..c…” ai cũng xót, ai cũng thấy đau thắt lòng, ứa nước mắt mà nào biết làm sao. Xót lại thêm xót, đau càng thêm đau! Cha xứ gom góp cũng chỉ được hai mươi triệu, số tiền cha để dành chuẩn bị xây ngôi nhà nguyện cho một họ lẻ. Không đủ! Bà Ân chắc chết!
Hồng Tâm quỳ rụi trước tượng Đức Mẹ cuối nhà thờ, tay cầm chuỗi hạt Mân côi mà không sao nén được lòng, nước mắt cứ tuốn ra, tiếng nấc cứ nghẹn lên, chua xót. Vừa học hết mười hai, ở cái tuổi trăng tròn vừa tới, em như một thiên thần chuẩn bị tung cánh bay vào đời. Ôm ấp ước mơ được tận hiến trót cuộc đời cho Chúa, theo tiếng gọi của Đấng em rất mực yêu mến, em đã chờ đợi biết bao lâu để tới ngày thực hiện ước mơ. Em đã từ chối biết bao nhiêu lời tán tỉnh, mời gọi, và còn can đảm và mạnh mẽ quay mặt với những tấm chân tình đầy hứa hẹn tương lai dành cho em. Em đã lo liệu, sắp xếp mọi thứ, căn dặn từng đứa em để sẵn sàng lên đường về Nhà Dòng ghi danh. Cha xứ đã chuẩn bị hết giấy tờ cho em để tuần tới sẽ đưa em về Nhà Dòng Mến Thánh Giá nhập tu. Những tưởng ngày em được hạnh phúc khoác lên mình tấm áo dòng thanh khiết đã không xa, vậy mà… Giờ thì sao đây?!
***
Người đàn bà tốt bụng cầm đôi tay run run của em, khẽ kéo em vào một căn phòng xa hoa, sáng bóng. Em đặt những bước chân ngập ngừng, sờ sợ, e dè vào căn phòng thoang thoảng mùi nước hoa thơm dịu. Mọi thứ cứ long lanh, lấp lánh, ngỡ tựa thiên đường. Vị đại ân nhân của em cứ đon đả dịu ngọt vỗ về, trấn an em. Rót một ly nước, bà đưa cho em rõ ân cần:
- Em uống ngụm nước đi, rồi nghỉ một giấc, mọi việc chị sẽ lo cho em hết. Mai chị sẽ đưa em đi làm luôn em ạ!
Hít một hơi thở sâu, em nhấp một ngụm nước, mát lẹm, ngon lành… Mắt em lờ mờ, thân em bừng nóng, chân tay bủn rủn… Nằm bẹp trên chiếc giường trắng muốt, đôi mắt em lim dim. Em cố hình dung căn nhà người Tây, mà ngày mai em sẽ được người đàn bà ân nhân kia dẫn tới để giúp việc… Cánh cửa phòng khẽ mở, người đàn ông cao to, ăn mặc lịch lãm bước vào. Người đàn bà hí hửng nói nói cười cười, rồi đi ra. Cánh cửa khép lại, trong cái lờ mờ của đôi mắt mê mê tỉnh tỉnh, em thấy người đàn ông lạ, miệng cười nham nhở thèm khát, lao vào em…
***
Bà Ân được cứu. Cả xóm đạo lại hớn hở chia vui.
- Đấy! Đúng là mẹ con bà Ân sống tốt nên trời thương các bà nhỉ?!
- Vâng, đúng là số cái con bé Tâm ấy sướng thật! Tự dưng có người bỏ cả một đống tiền ra giúp đỡ…
- Nghe đâu chỉ đi giúp việc cho nhà một ông Tây nào đó vài năm là trả hết nợ, lúc ấy về đi tu vẫn kịp!
- Mà nghĩ thấy lạ các bà ạ, trên đời có nhiều người tốt thật đấy!
Tiếng mấy bà hội Mân côi bàn tán ồn cả một góc sân nhà xứ. Những câu nói cứ râm ran lướt qua vầng trán đang nhăn lại của cha xứ: có điều gì không ổn!
***
Uể oải lết đôi chân chán chường về phòng, em ném cái thân xác dường như chỉ còn nửa hồn xuống giường. Căn phòng của em nằm sâu trong con hẻm, luôn luôn tăm tối, u ám và được canh phòng bởi hai tay xã hội đen lạnh ngắt. Em chợt nhận ra hôm nay phòng em lại có thêm người. Cũng chẳng lạ gì! Hai cô bé chắc là từ xa mới được đem tới đây đang nằm ngủ ngon lành. Có lẽ hai đứa vừa trải qua một chuyến đi dài. Thế là lại có thêm hai số phận khốn nạn! Em định nhắm mắt ngủ, thì câu hát lại chập chờn hiện về: “…hãy mau ăn năn đền bồi…” Em vùng vằng lật mình, như cố để xua tan cái lời ca đang cứa vào tâm hồn em đó. Bao nhiêu sự khốn nạn của cuộc đời em lại hiện lên. Em nghĩ tới bao nhiêu kẻ em đã phải gặp, đủ hạng! Em lại càng thấy cay nghiệt hơn cho số kiếp của mình. Những kẻ bề ngoài vẫn tỏ ra gương mẫu, dạy đời bằng các bài diễn văn, luật lệ,…; những kẻ có vẻ thành đạt, giàu có, bằng cấp đủ loại,…thì trước mặt em, chúng hiện lên nguyên hình! Nước mắt em lại ứa ra, cay đắng! Những kẻ đã vứt phăng lương tâm kia đã khiến em thành một con đĩ như lúc này đây. Một kiếp sống ư? Không, là chuỗi ngày đau đớn đè lên những ngày tủi nhục! “Bỏ trốn!” - ý nghĩ vừa chợt lóe lên trong em, thì hình ảnh căn phòng tối om, đầy ruồi nhặng, hôi thối, ẩm thấp, ướt nhẹp choám lấy tâm trí em. Nỗi kinh hoàng của cái hình phạt bị giam, bỏ đói, bỏ khát, bị kích điện,..vì một lần em chạy trốn một tên khách bệnh hoạn kia khiến em rùng mình, mồ hôi toát ra đầy vầng trán. Cái chết! Điều em nghĩ tới đầu tiên khi phát hiện sự trinh trắng của mình đã bị cướp mất, nhưng, mẹ già, luật Chúa, em không dám làm gì. Em bất lực rồi, chỉ còn biết ngậm ngùi buông xuôi!
***
Em thiếp ngủ, vô tình hình ảnh người cha già năm xưa lại hiện lên rõ nét trong giấc mơ của em.
- Thứ nhất, Đức Mẹ dạy các bạn trẻ ấy phải nói với toàn thế giới này là hãy biết ăn năn tội lỗi, quay về với Chúa, với Mẹ. Đừng tiếp tục làm những điều tội lỗi, xấu xa nữa. Mẹ buồn lắm! Thứ hai,….
Em giật nảy mình, bật choàng dậy, mồ hôi toàn thân vã ra. Cảm giác hãi hùng chụp lấy em. Hình ảnh chuỗi hạt trên tay Đức Mẹ đong đưa và lời cha già cứ quấn lấy tâm trí em, không rời… Ước mơ của em năm xưa, những kỉ niệm của em dưới chân Đức Mẹ, hình ảnh người mẹ già tần tảo và ba đứa em ngây thơ lại hiện về. Em đã cố gắng để gạt đi những ý nghĩ đó, nhưng, những hình ảnh ở một cõi mơ màng cứ hiện lên rõ nét. Nơi đó, một người nữ tu hiền từ, thánh thiện, vận bộ áo dòng đen, chiếc lúp trên đầu đang nhẹ bay theo làn gió. Nàng đang chăm sóc những đứa trẻ tật nguyền với khuôn mặt thật tươi, nụ cười hiền dịu, ánh mắt đầy yêu thương… Em thấy rất rõ, rất rõ: đó là em! Hình ảnh đó, ước mơ đó em đã ôm ấp bao tháng ngày. Tưởng những ngày cơ cực của em đã vùi lấp chúng đi từ lâu, vậy mà giờ đây, chúng đang tràn về trong em một cách không thể kiểm soát, rất thật! Tưởng chừng như em chỉ cần đưa tay ra là có thể chạm tới tà áo dòng kia. Khóe mắt em cay cay… Tâm hồn em thổn thức! Lòng em như nghẹn ngào, da diết. Em thấy tim mình đau thắt từng cơn. Em nấc nghẹn: “Mẹ ơi! Nguyện ước của con! Lời khấn hứa của con…!” Giọt nước mắt em trào tuôn, tràn qua đôi gò má nóng hổi…
- Ba mẹ ơi, ba mẹ ơiii…- tiếng nói mớ của cô bé mới tới nằm bên cạnh lại khiến em giật thót. Chợt nhận ra sự khốn nạn của thân em lúc này, chúng khác xa trong ước mơ của em! Em càng thấy đau đớn, cay đắng cho phận mình. Giòng lệ tiếp tục tuốn ra, em ôm mặt, nức nở… “Chẳng lẽ mình cứ như vậy mãi ư? Chẳng lẽ mình cứ đứng nhìn người ta phá nát cuộc đời của hai cô bé đáng thương này ư? Chẳng lẽ cái kiếp cơ cực, cay đắng này lại phủ xuống trên đầu tụi nó? Chẳng lẽ mình có thể tiếp tục thờ ơ trước lời mời gọi da diết của Mẹ được ư? Chẳng lẽ mình lại cứ tiếp tục dấn bước trong cái kiếp tội lỗi này ư? Chẳng lẽ, chẳng lẽ…”
***
Cầm trên tay số tiền mà người chị mới quen vừa đưa, hai cô bé nhà quê rưng rưng nước mắt. Vội vã bước lên chiếc xe đò gấp gáp…đi khuất! Người con gái còn đứng ngoái theo, tay chắp nguyện cầu cho chuyến đi được bình an. Thở phào nhẹ nhàng, tâm hồn cô thấy bình an và niềm hạnh phúc chứa chan hơn bao giờ hết, dù cô vừa mất đi số tiền tích cóp bấy nhiêu năm nay cơ cực, số tiền lấy từ máu và nhân phẩm của cô! Cô không còn nhiều thời gian nữa để biến khỏi mảnh đất này, cô đang hình dung về một miền quê nơi xa kia đang vẫy tay chào đón, một cuộc sống thanh bình, và hình như, lấp ló đâu đó một cánh cổng Nhà Dòng... Chợt rùng mình khi nghĩ tới những nguy hiểm trước mắt cô. Cô muốn tới lấy lại cỗ tràng hạt mà cô đã treo lên tay Đức Mẹ vào cái ngày cô đau khổ khi phát hiện mình đã đánh mất tất cả. Ngày đó em đã trách hờn và oán hận Mẹ rất nhiều, hôm nay, em sẽ khác, từ nay, em sẽ là đứa con thảo hiền của Mẹ… Lời dạy thứ nhất của Mẹ, em đã làm được, chẳng biết có là quá muộn?!
Em bước lên chiếc taxi, nhắm thẳng hướng ngoại ô. Bầu trời vừa tối!
***
Vị linh mục già hối hả đặt những bước chân run run lên bậc cấp của bệnh viện. Cô y tá vừa dẫn đường, vừa thao thao:
- Con nhỏ đã tạm qua được cơn nguy kịch, nhưng còn phải phẫu thuật não gấp. 99% là sẽ không qua khỏi, nhưng chúng con vẫn sẽ cố hết sức. Có thể đây sẽ là lần cuối cha được nói chuyện với con nhỏ. Tội nghiệp! Suốt cơn hôn mê, miệng cứ rên miết “Mẹ Maria ơi, Mẹ Maria ơi…”
Bệnh nhân nằm dài trên giường, toàn thân thấy đâu đâu cũng là những vết băng bó. Mái tóc dài bết máu đêm hôm trước giờ chỉ còn thấy một vệt khâu dài, chằng chịt. Khuôn mặt em vẫn hiền hậu nhưng làn da trắng bệch, nham nhở những vết rỗ, tàn tích của việc sử dụng phấn trang điểm triền miên. Bờ môi khô nứt nẻ vì thiếu son, nhẹ mấp máy. Đôi mắt hốc hác, nhưng rõ ràng đang lóe lên một niềm hạnh phúc khó tả. Cha già lúng túng vì gặp phải ánh nhìn đó.
- Thưa cha, con xin xưng tội…- giọng em cứ thế thều thào buông… Những giọt nước mắt còn sót lại trong em lại ngoi lên, trào ra qua đôi mắt thi thoảng lại nhắm nghiền thật chặt, cay đắng…
- Con còn nhớ bài hát Đạo nào không?
Em ngạc nhiên đến ngỡ ngàng vì câu hỏi của vị linh mục. Chợt nở nụ cười, em nói trong tiếng nấc nghẹn ngào của niềm hạnh phúc bất chợt trào tuôn: - Dạ, con thuộc bài “Năm xưưa.. trên cây sồi”!
***
Tiễn em ở cửa phòng phẫu thuật, cha già nhẹ đặt cỗ tràng hạt đã mòn và sẩm màu vào lòng bàn tay đang băng bó, chỉ còn hở mấy đầu ngón tay khẽ nhúc nhích của em: - Con hãy vững tin, Đức Mẹ sẽ giúp con… Cha tin là Đức Mẹ sẽ cho con cơ hội để con thực hiện hai lời khuyên còn lại của Mẹ như lời con vừa hát! Và ước mơ tận hiến của con, cha tin Chúa sẽ chúc lành… - ngập ngừng, cha nhìn sâu vào đôi mắt em:
- Con có sẵn sàng tha thứ cho những người đã làm hại con không?
Em lặng người, cố gắng hít một hơi thở thật sâu, nhắm chặt đôi mắt… Cặp mắt em vẫn nhắm nghiền cho tới khi hai dòng nước mắt rỉ ra khóe mi, em mở mắt, nhấp nháy, đôi môi em run run, nghẹn ngào:
- Con xin tha thứ cho tất cả những người đó, thưa cha!
Vị linh mục bỗng lúng túng khi mấy giọt nước mắt lạc loài chợt ứa ra từ đôi mắt đã nhăn nheo của mình. Ngài vội quay đi, đưa tay lên quệt ngang giọt lệ. Đôi mắt cay cay chớp liên hồi, nhưng tâm hồn ngài thấy ngập tràn một niềm vui.
Em khẽ nở nụ cười hạnh phúc, ánh mắt lóe lên niềm tin yêu vô bờ… Em như thấy Đức Mẹ đang mỉm cười nhìn em. Lòng em thấy êm dịu, bình yên vô cùng. Quả thật, em thấy “lòng trút khỏi ngậm ngùi, mắt khô đôi suối lệ đời…”, từ nay, em sẽ quên đi tất cả để được “sống trong tình Mẹ yên vui”! Những lời ca dịu dàng lại âm vang trong lòng em “…hãy mau ăn năn đền bồi, hãy tôn sùng Mẫu Tâm, hãy năng lần hạt Mân côi…” Và em chợt nhận ra rằng vẫn luôn còn đó những lời ca thiêng mãi vọng…
(Kính tặng Nữ tu Maria ĐHT)
























































Há miệng cho hồn văng lên muôn trượng,
Chơi vơi trong khí hậu chín từng mây.
Ánh sáng lạ sẽ tan vào hư lãng,
Trời linh thiêng; cao cả gợi nồng say...
Vì không giới, nơi trầm hương vắng lặng,
Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao,
Sóng gió nổi rùng rùng như địa chấn,
Và muôn vàn thần phách ngã lao đao.
Cả hơi hám muôn xưa theo ám ảnh,
Hồn trơ vơ không biết lạc về đâu?
Và vướng phải muôn vàn tinh khí lạnh,
Hồn mê man bất tỉnh một hồi lâu.
Rồi sảng sốt bay tìm muôn tử khí,
Mà muôn sao xa cách cõi hoang sơ.
Hồn cảm thấy bùi ngùi như rớm lệ,
Thôi hồn ơi, phiêu dạt đến bao giờ!
Hồn hãy thoát ly ra ngoài tâm tưởng
Là hồn đừng nghĩ ngợi đến hồn trong,
Cứ để mặc hồn ngoài bay lưởng vưởng,
Ngao du cùng khắp cõi trí mênh mông.
Xác ta sẽ hút bao nguồn trăng loạn,
Ngấm vào trong cơ thể những hoa hương,
Và sẽ thở ra toàn hơi thở sáng,
Để trên cao, hồn khỏi lộn màu sương.
Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã,
Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa.
Hồn mất xác, hồn sẽ cười nghiêng ngả,
Và kêu rêu thảm thiết khắp bao la...
Ôi! Hồn thiêng liêng khôn bề chết đặng,
Làm sao hồn chẳng hiểu nghĩa vô biên.
Ngày tận thế là ngày tán loạn,
Xác của hồn, hồn của xác y nguyên.
Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng,
Để cho hồn đỡ bớt nỗi bi thương.
Nhưng khốn nỗi xác ta đành câm tiếng,
Hồn đi rồi, không nhập xác thê lương.
Hàn Mạc Tử.
(Trích trong tuyển tập Có Một Vườn Thơ Đạo)





































(Mã số VVYT 17-021)

Cha mẹ đã yêu con bằng một tình yêu khôn tả
Để dù ở gần xa con nao nức hướng về|
Có cái gì hơn cả đam mê
Khi bàn tay mẹ vỗ về nhẹ vương vào má
Giữa hương gió mùa thu êm ả
Mẹ ru con vào giấc ngủ yên bình.


Mẹ ơi!
Mẹ đã mang con suốt chín tháng mười ngày
Và có phải vì con ngày một nặng,
Mà bóng mẹ đổ dài choạng vạng chiều hôm?


Và con biết… cha ơi… con biết,
Để lo cho con có một mái nhà mà hàng đêm cha mất ngủ
Thao thức dạy con nên người cho xứng con cha.


Có những điều con không thể nói ra
Cứ day dứt vô tình trong lặng lẽ
Mười tám năm trời học, ăn, chơi, bám mẹ
Vẫn giữ trong mình những nỗi niềm riêng.


Hình ảnh mẹ cha hiền sao quá đỗi thiêng liêng
In đậm bóng hình trong con từ những ngày thơ bé
Thử hỏi có cái gì yêu thương hơn thế
Là khuôn mặt mẹ cười bên nồi cơm đầu mùa nghi ngút bốc hơi?


Có cái gì, cha mẹ của con ơi…
Nếu ngõ xóm đường làng mẹ cha không in bóng
Nếu vườn nhà mình không có bụi mía, hàng rau
Và đông đến, nếu bếp hồng kia vắng lặng
Không tiếng mẹ nói cười sưởi ấm trái tim con.


Ôi! Có cái gì đau đáu tận lòng con
Khi bóng mẹ con nay gầy hơn trước
Khi mái tóc cha nay chuyển màu sang bạc
Mà con vẫn còn… là một đứa trẻ thơ ngây…

(Mã số VVYT 17-020)

Chiều ba mươi Tết, Hoàng vẫn chưa rời khỏi cổng chợ. Những chiếc chõng hàng xéo cuối cùng đang được Hoàng cố gắng chất lên cho gọn gẽ. Nhìn thằng bé nhễ nhãi mồ hôi, trông đến tội nghiệp. Bà Lan ở quầy bánh kẹo, sau khi thu dọn đồ đạc gọn ghẽ, bà quay lại vẫn còn thấy Hoàng đang xăng xít dọn dẹp chưa xong. Bà bảo Tâm con gái bà:

- Con gọi thằng bé kia lại cho mẹ nhờ chút.

- Thằng kia, thằng kia… Lại cho nó chứ gì, lúc nào cũng cho nó, còn con xin mấy đồng lẻ cũng không cho.

- Đến bao giờ con mới bớt lo cho bản thân để nghĩ đến người khác thế hả Tâm? Mẹ có dạy con sống ích kỉ như thế không hả? Chúa ban cho mình có điều kiện không phải để tiêu xài hoang phí, nhưng còn phải biết chia sẻ cho những người kém may mắn hơn chúng ta…

Bà còn chưa nói hết thì Tâm đã ngắt lời:

- Gọi thì gọi, gì mà lợi dụng để lên lớp thế không biết.

Tâm vùng vằng bỏ đi.

- Đúng là con với chả cái.

- Này, này, lại mẹ tui nhờ chút.

Hoàng đang khuân dở chiếc chõng, nghe Tâm gọi liền đặt xuống vội vàng đi lại chỗ bà Lan. Ở chợ này mọi người đều quý cái sự nhanh nhẹn ấy của Hoàng, gọi là tới ngay, không chần chừ giây lát.

- Thưa bà gọi con.

Tâm đứng liếc nhìn mẹ, nó lè cái lưỡi dài thườn thượt rồi bỏ đi.

- Ờ, hai anh em con đã chuẩn bị tết đến đâu rồi?

Hoàng gãi đầu. Thật ra Hoàng đã chuẩn bị được cái gì đâu, ngoài ít gạo, mấy cái bắp xú và một ít thịt được mấy người ở quán hàng xéo trả công. Đối với anh em Hoàng, cái Tết như thế là quá thịnh soạn rồi. Cả năm đi làm thuê, Hoàng cũng chỉ mong đến ngày Tết có cơm cho hai anh em ăn là mừng lắm. Thấy Hoàng gãi đầu, bà Lan vừa bật cười vì cái tính nhút nhát của cậu bé, vừa thấy thương cho hoàn cảnh của cậu. Mới mười bốn, mười lăm tuổi mà phải lăn lộn với cơm áo, gạo tiền để nuôi em. Bà với tay lên sập lấy một cái bọc đen được gói sẵn trong đó đưa cho Hoàng.

- Con cầm lấy về lo Tết cho em nhé.

Hoàng ngại ngùng không dám cầm, dù cực khổ nhưng Hoàng chưa bao giờ dám ngửa tay đi xin ai cái gì. Ba mẹ cậu vẫn thường dạy: “của biếu là của lo, của cho là của nợ. Chỉ có những gì mình tự làm ra mới bền vững”. Thấy cậu bé lưỡng lự, bà như hiểu ra nên tiếp lời:

- Con cầm đi, đừng ngại, coi như bà mừng tuổi hai đứa.

Hoàng đỡ lấy món quà bà Lan đưa.

- Con cảm ơn bà Lan nhiều lắm, lúc nào bà cũng cho anh em con quà, không biết đến lúc nào con mới đền ơn cho xứng.

- Có gì đâu mà ơn với nghĩa chứ, con cứ sống ngoan như thế là bà vui rồi. Thôi về đi con, còn có mấy tiếng nữa là đến giao thừa rồi đó.

- Vâng, chào bà con về.

Dọn dẹp xong Hoàng vội vã trở về nhà, về đến đầu ngõ đã thấy đứa em gái đang lon ton chạy ra đón anh. Vừa nhìn thấy anh, đứa bé đã reo lên vui sướng:

- Anh Hai, anh Hai về rồi!

Hoàng đặt túi quà bà Lan vừa cho xuống đất, dang hai tay ra ôm lấy cô em gái bé nhỏ vào lòng, vuốt ve mái tóc vàng hoe của em.

- Hôm nay bé Hoa của anh ở nhà có ngoan không, có bị ai bắt nạt không? Ăn bánh anh gởi về có ngon không?

- Ờ, dạ. Em không biết.

- Sao lại không biết, ăn mà cũng không biết ngon hay dở hả ngốc?

Hoàng vừa nói vừa véo vào má Hoa.

- Không phải, mà em cho ông ấy cái bánh đó rồi, Hoa vừa nói vừa chỉ tay về phía ông cụ đang ở cái lán ngoài cánh đồng.

Ngoài cánh đồng có cái lán của nhà ông Quang bỏ trống, mấy tuần nay không biết có ông cụ từ đâu tới xin ở nhờ ban đêm, ban ngày ông đi xin những đồng tiền lẻ của những người hảo tâm để sống qua ngày. Thấy ông cụ, bé Hoa đã cho ông chiếc bánh mì ba tê của anh Hai gởi người ta cầm về cho em.

- Ông nào hả em? Có người mới đến đó hả?

- Em không biết, em thấy ông ấy ở đó.

Nghe em nói, Hoàng giật mình nhớ ra, mấy tuần nay cậu lo làm cả ngày đến tối mịt mới về, đến sáng lại đi từ sớm nên chẳng còn để ý đến ai xung quanh mình. Cậu mở gói quà bà Lan vừa mới cho, hai mắt sáng lên khi nhìn thấy một cặp bánh chưng to, một cây giò và một đùm bánh kẹo. Từ ngày ba mẹ qua đời, để lại hai anh em côi cút đến nay, đây là cái Tết thứ tư. Bốn năm rồi, hai anh em Hoàng có biết mùi vị của bánh chưng ngày Tết là gì, càng không biết đến miếng giò, chứ nói gì đến bánh kẹo. Thế mà năm nay vừa có giò, có bánh chưng lại có cả kẹo bánh nữa, đối với Hoàng đây là một cái Tết đầy đủ nhất. Nhưng Hoa thì khác, kẹo là cô bé thích nhất, con nít ai mà chả thích bánh kẹo chứ. Hoa tròn xoe mắt nhìn thành quả lao động của anh Hai với niềm vui xen lẫn tự hào:

- Anh Hai em giỏi quá, mai mốt lớn lên em cũng đi làm giống anh Hai.

- Đây là quà người ta cho anh em mình.

Hoa thấy anh lấy bịch xốp san gói kẹo ra, rồi lại lấy con dao cắt cây giò mà không hiểu anh đang làm gì.

- Anh Hai làm gì thế ạ?

- Anh muốn chia cho ông cụ ngoài cánh đồng để ông ấy cũng được ăn Tết như chúng ta.

Nói xong anh xếp một chiếc bánh chưng, nửa cây giò và phần bánh kẹo vào một cái bịch xốp khác. Cậu nhìn cô em nhỏ cười.

- Em đi với anh nhé!

Hai anh em đi tới cái chòi thì không còn thấy ông cụ ở đó nữa. Ông đã dọn đi nơi khác rồi. Không thể chia sẻ món quà của mình cho ông cụ nhưng cả hai anh em đều thấy vui, niềm vui từ chính tấm lòng của họ khi biết nghĩ đến người khác.

- Mình về thôi em.

- Anh Hai ơi, Tết đến rồi, Tết của tình yêu.

Hoàng quay lại nhìn cô em gái cười hiền.

Ừ, Tết đã về,Tết của tình yêu.


Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý... bóng xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây...
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Hàn Mac Tử.
(Trích trong tuyển tập Có Một Vườn Thơ Đạo)

















(tiếp Phần I : Mùa Yêu- Cảm Nhận Tình Người Trong Xuân
Phần II: Mùa Yêu – Cảm Nhận Tình Xuân Trong Chúa)
Khi cảm nhận Tình Người Trong Xuân, tôi rất thích hai câu đầu của bài “Mùa Yêu”, vì hai câu này tả cảnh và diễn tình rất nên thơ.
“Mây nghiêng xuống cho Thơ Xuân đọng giọt
Kéo Hương trời nâng hạt nắng phiêu diêu”
Và khi cảm nhận Tình Chúa Trong Xuân, tôi lại tâm đắc với hai câu sau của khổ thơ đầu tiên này, vì nó tràn trào “bật lên”, “bỗng biến thành” một niềm hạnh phúc khôn tả từ bên trong tâm hồn. Nó không còn là cảnh là tình ở bên ngoài nữa, nhưng là cảnh “ánh sáng”, là tình “Mùa yêu” ở tận nơi sâu thẳm, tận nơi gặp gỡ, tận nơi kết hiệp của linh hồn với Chúa.
“Thơ khiết lắm bật lên màu ánh sáng !
Ô bốn mùa ! bỗng biến thành mùa yêu !”
Thật thanh và thật nhã khi dùng những biểu tượng trong thiên nhiên để diễn tả hình ảnh Thiên Chúa sáng tạo vì yêu thương, hạnh phúc được đón nhận và niềm vui khi trao ban trong bài thơ “Mùa Yêu” của tác giả An Thiện Minh.
III.1. SÁNG TẠO YÊU THƯƠNG
“Mây nghiêng xuống cho Thơ Xuân đọng giọt
Kéo Hương trời nâng hạt nắng phiêu diêu
Thơ khiết lắm bật lên màu ánh sáng !
Ô bốn mùa ! bỗng biến thành mùa yêu !”


Mây nghiêng xuống”, một câu thơ thật lạ. Mây làm gì có nghiêng, cây nghiêng, nhà nghiêng, người nghiêng thì có. Vậy cái “nghiêng xuống” đó của “Mây” là gì? Hình ảnh thơ mộng làm sao, một dạng nhân cách hóa hành động của “Mây” nhằm nói về ai đây?
Thơ Xuân đọng giọt”, lại một câu thơ lạ nữa. “Thơ Xuân” là gì mà lại “đọng giọt”. Phải có sương đêm đẫm ướt thì ta mới thấy được những giọt nước long lanh trong vắt đọng lại trên những cánh sen, đóa hồng, hoặc tụ lại trên từng phiến lá khi bình minh vừa ló dạng. Sự lắng đọng đó là kết quả một sự thấm đẫm lan tỏa và toàn bộ. Vậy “Thơ Xuân” là ai để sương đêm của “Mây nghiêng xuống” đọng lại những giọt tình trên mình? Quả là một hình ảnh rất tình tứ và sinh động.
clip_image004
“Kéo Hương Trời”, câu thơ rất thanh nhưng hàm ẩn điều gì? Có phải chăng cái nghiêng xuống của “Mây” đọng những giọt sương đêm ăm ắp tình và thấm đẫm “Hương Trời” cho “Thơ Xuân” không? Vậy “Hương Trời” là ai? Sao lãng mạn đến thế.
“Nâng hạt nắng phiêu diêu”, rồi “hạt” tượng trưng cho ai mà để cho cái hương đó, cái tình đó nâng lên, bay bổng lên, tung tăng, lơ lửng “phiêu diêu” trong ánh nắng.
clip_image006
Trông kìa, chú gà con đang đậu trên lưng mẹ và cứ mổ nhẹ vào cánh của mẹ mình, chú đang làm gì thế? Phải chăng chú đang yêu mẹ tha thiết ?!
Xem kìa, người mẹ ru con trong vỗ về thương mến, chị nông dân dịu dàng lau những giọt mồ hôi nhễ nhại trên khuôn mặt rạm nắng của bạn mình, người chồng nhẹ nhàng vuốt lại mái tóc điểm sương của người bạn đời đã cùng nhau dãi dầu năm tháng… Chao ơi! cái vỗ về thương quá, cái dịu dàng nồng quá, cái nhẹ nhàng lắng đọng quá !
Nhìn kìa, một em học sinh đang thong thả dắt cụ già qua đường, ai đó đang vội vã cõng người bị tai nạn đi cấp cứu, cô điều dưỡng hối hả băng bó vết thương cho bệnh nhân… Chao ơi! cái thong thả thật đẹp, cái vội vã đáng kính, cái hối hả rất tình người làm sao !
Và còn biết bao nghĩa cử đầy yêu thương, đầy tình nghĩa mà chúng ta nhìn thấy trong thiên nhiên, gặp được trong cuộc sống đều diễn tả cái nụ hôn đầy tình lân ái, cái khẽ chạm đầy nghĩa yêu thương đó.
Với Thiên Chúa thì sao? Ngài không thể hiện tình yêu của Ngài ư? Hay Ngài đã thể hiện mà chúng ta chưa nhận ra, chưa hiểu hết được, chưa cảm nhận được cái khẽ chạm của Ngài, cái nụ hôn mà Ngài ban tặng cho ta ?
Theo cảm nhận cá nhân, bài thơ chiêm niệm này quả thật là kết quả của một đời sống đã thăng hoa trong tình yêu Thiên Chúa. Tác giả đã Thiêng cách hóa từ “Mây” hàm ý nói về Thiên Chúa Cha, từ “Thơ Xuân” một ẩn từ nói về Thiên Chúa Con, “Hương Trời” tượng trưng cho Thánh Thần Thiên Chúa và “Hạt nắng” là chúng ta.
Xem kìa Chúa Cha đã yêu Chúa Con đến ngần nào “Mây nghiêng xuống” và Chúa Con cũng đã yêu Chúa Cha khôn xiết “Thơ Xuân đọng giọt”. Tình yêu giữa Ngôi Cha và Ngôi Con đã nhiệm xuất Thánh Thần Thiên Chúa, Ngôi Ba Tình Yêu “Kéo Hương Trời” và chính trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa mà chúng ta được tạo thành “nâng hạt nắng phiêu diêu”. Tình yêu Thiên Chúa cao cả lắm, thanh khiết lắm, huyền nhiệm lắm “Thơ khiết lắm”, vì nó đưa chúng ta vào ánh sáng vĩnh cửu, vào hạnh phúc của sự sống thần linh “bật lên màu ánh sáng”.
Đọc Tin Mừng theo Thánh Gioan, chúng ta sẽ hiểu hơn tình yêu sáng tạo này.
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành.
Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. (Ga 1, 1-4)

Thật vậy, Tình Yêu huyền nhiệm đó như tuôn chảy dạt dào, như trào dâng bất tận để thổi vào bụi đất Hơi Thiêng Thần Khí, để đổ vào đồng hoang cỗi cằn dòng Nước Trường Sinh và nâng hạt bụi ướm màu đen đúa, lấp lánh bay trong Nguồn Ánh Sáng diệu kỳ.
Quả vậy, Tình Yêu huyền nhiệm đó như Ý Thơ sung mãn cho trái tim kín múc chẳng khi nào tát cạn; như Giai Điệu hài hòa, cho thần trí lắng nghe dâng cung bậc thượng tiến; như Vẻ Đẹp hoàn hảo cho ánh mắt mãi luôn hướng về, cho linh hồn mãi luôn chiêm ngưỡng, để mến để yêu và để sống.

“Mây nghiêng xuống cho Thơ Xuân đọng giọt
Kéo Hương trời nâng hạt nắng phiêu diêu”

Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.(Ga 3, 16)

clip_image008
Thật đúng, nếu Ngôi Cha không yêu thương Ngôi Con thì chẳng có gì được tạo thành, và chúng ta mãi mãi không bao giờ hiện hữu, chẳng bao giờ “hạt bụi được phiêu diêu trong dòng nắng ấm”. Tuyệt thay ! “Mây Xuân đã nhẹ nghiêng”, “Thơ Xuân đã đọng giọt” và “Hương Xuân đã ùa về” trên môi mắt của từng cánh hoa, trên tí tách của từng nốt nhạc và trên thánh thót của mỗi nhịp rung… Cứ thế làm sao hoa không nở, dòng nhạc không ngân, nhịp đập không réo rắt ? Hạt bụi mờ đục ngày nào bỗng biến thành hạt nắng thanh khiết trong Xuân, vần thơ bập bẹ dạo ấy chợt trở nên tứ thơ trác tuyệt giữa mùa Sáng và nhịp rung trúc trắc thuở nào nay như đầy ắp ngọt ngào tỏa ngát theo Hương. Cho nên, không có gì ngạc nhiên khi tác giả kết ý bằng một câu thơ vừa có sự lãng mạn của tính thơ vừa có sự xác tín đức tin của mình:

“Ô bốn mùa ! bỗng biến thành mùa yêu !”
Hiểu như vậy, chúng ta sẽ cảm nhận được ý trong khổ thơ thứ hai khi tác giả viết:
“A thật rồi! Huyền Xuân giăng trước ngõ !
Lộc chớm mềm mọng bờ ngát liêu xiêu
Kinh reo hát đong đưa lòng chớp mở
Ô bốn mùa ! hong mát một mùa yêu !”
A thật rồi”, một sự thật không thể thay, một sự xác tín không thể đổi, một tiếng reo chúc tụng và hoan hỉ: Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta (Ga 1,14). Đây chính là “Huyền Xuân giăng trước ngõ”. Đây chính là một điềm lạ vĩ đại của trời và đất, một Giai Điệu hay nhất của mọi giai điệu và là một Tin Mừng hơn hết mọi tin mừng. Niềm reo vui đó được rung theo nhịp của vô biên nên nó mãi tràn trào không bao giờ cạn kiệt, nên nó mãi ngân vang chẳng khi nào thôi dứt.
Trong một nghĩa nào đó có thể nói: Đức Giêsu Kitô - Ngôi Lời nhập thể là nụ hôn của Thiên Chúa ban cho nhân loại, ban cho tất cả vũ trụ này. Một nụ hôn thần linh đã trở thành thấy được, nghe được, chạm được, trở thành sống chung, sống cùng và sống với chúng ta.
Và Đức Giêsu Kitô được trao ban cho chúng ta như là “Lộc chớm mềm” của Chúa Xuân, là Lộc của tình yêu, là Lộc của ân sủng, là Lộc trên mọi thứ lộc mà vũ trụ này, nhân loại này phải cung kính, phải trân trọng đón nhận phải “mọng bờ ngát liêu xiêu”. Tin mừng thánh Gioan viết:
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. (Ga 1, 14)
Đâu đó ta như nghe nhịp đập của trái tim rung lên nhịp rung vũ hoàn, để quyện lấy Hương Trời nồng thơm tỏa ra những tứ thơ diệu kỳ thanh trong màu sương thánh “Kinh reo hát”. Đâu đó ta cảm nhận triều sóng của cung lòng vỗ vang âm điệu Trời đất, để quyến mãi Gió Thiêng tung lên những ý thơ trắng khiết muôn bãi bờ “đong đưa lòng chớp mở”.
“Kinh reo hát đong đưa lòng chớp mở”
Tất cả như khai phóng và bật mở Miền Ánh Sáng của Mùa Xuân Vĩnh Cửu. Không còn phân biện hay chia tách, không còn vòng quanh nhỏ to bốn mùa “Ô bốn mùa”. Khi Ánh Sáng đã ùa về bao phủ lấy trái tim, mọi cung bậc bỗng biến thành trái yêu mọng chín, mọi dấu đời bỗng hóa thành giai điệu thanh xuân “hong mát một mùa yêu”.
“Ô bốn mùa ! hong mát một mùa yêu !”

III.2. HẠNH PHÚC ĐÓN NHẬN
Theo Kinh Thánh Cựu Ước, người đầu tiên đón nhận nụ hôn của Thiên Chúa chính là Adam.
ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.”(St 2, 7).
Nếu không có làn hơi của Thiên Chúa thổi vào, A-đam chỉ là một khối đất vô tri bất động và không hề có sự sống. Cho nên lúc đó Adam chưa cảm được nụ hôn sáng tạo của Thiên Chúa, vì ông còn là bụi đất.
clip_image012
Và có lẽ ông cũng chưa cảm thấy mình tốt đẹp như thế nào khi được tác tạo giống hình ảnh Thiên Chúa.
Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. (St 1, 26-27)
Tuy nhiên, người đầu tiên có diễm phúc cảm được nụ hôn của Thiên Chúa tuyệt vời nhất chính là một trinh nữ - Đức Maria.
Người trinh nữ này không ngỡ ngàng sao được khi nhận được lời mời gọi để cuộc đời mình trở nên một huyền nhiệm của Thiên Chúa, trở nên cung lòng để Ngôi Hai Thiên Chúa ngự trị, mặc dầu mình chỉ là bụi đất !
Người trinh nữ này không xôn xao sao được khi Đấng Tối Cao ngỏ lời biến nụ hôn của Ngài thành hiện thực, biến lời giao ước từ ngàn xưa thành thực tại hôm nay, mặc dầu cuộc đời mình chỉ là một nét chấm phá mong manh của lịch sử !
“Xôn xao quá ! lá cành vương mắt biếc
Hương trào dâng rợp thanh khí duyên nồng
Đón Nguyên Xuân vũ hoàn mơ sao xiết !
Bật cung đời nụ tình hé trắng trong !”
clip_image014
Tin Mừng theo thánh Luca đã viết:
Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" (Lc 1, 28-34)

Cái ngỡ ngàng của trinh nữ Maria thật đáng yêu ! Cái xôn xao của trái tim đón nhận Thiên Chúa thật thánh khiết ! Tâm hồn trinh nữ Maria dịu ngoan như bài thơ trác tuyệt được viết chỉ với tiếng “Xin Vâng”, để đón nhận trọn vẹn “Nguyên Xuân” trời đất. Cung lòng “Nữ tỳ của Chúa” trong vắt như ánh pha lê được xuyên suốt chỉ với một niềm “đơn sơ – Tin tưởng tất cả, cậy trông tất cả và yêu mến tất cả” để đón nhận Thánh Ý nhiệm mầu.

“Đón Nguyên Xuân vũ hoàn mơ sao xiết !
Bật cung đời nụ tình hé trắng trong !”
Người trinh nữ bé nhỏ đó không bao giờ nghĩ rằng mình được diễm phúc trọng đại đó. Diễm phúc được đón “Nguyên Xuân” đến cự ngụ trong lòng mình. Tin Mừng thánh Luca thuật lại như sau:
Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa.
Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". (Lc 1, 35.38)
Đức Trinh Nữ Maria không chỉ cảm nhận đó là là nụ hôn sáng tạo mà còn là nụ hôn đầy ắp yêu thương của Thiên Chúa. Hạnh phúc tràn trào như sóng dâng muôn trùng sóng dâng, đến độ trái tim bật lên tiếng reo bất tận vì được hòa vào cung nhịp của Tình Yêu vĩnh cửu, thần trí vỡ òa niềm vui tuyệt diệu vì được tháp nhập vào Sự Sống của muôn sự sống và linh hồn bay cao mùa chúc tụng vì được trở nên “mái ấm” cho Thần Khí ngự xuống và Đấng Tối Cao rợp bóng.
Thế nên, cuộc đời đầy ắp Thiên Chúa sẽ là cuộc đời làm cho Thiên Chúa lớn lên trong mọi giây phút và trái tim cưu mang Thiên Chúa là trái tim chỉ có một nhịp đập của Lòng Mến. Tất cả cuộc sống lúc này sẽ trở nên bài tình ca chúc tụng rất thơ và rất khiết, rất thanh và rất sáng để lời tạ ơn cháy bỏng trong từng cung bậc yêu thương.
Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Ðời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời. (Lc 1, 46-55)

 

“Nôn nao quá ! Gió đẩy tung triều sóng
Mạch Nguồn Thơm dào dạt tỏa trong tim
Thơ tung lên khắp muôn thời lay động
Gõ nhịp Trời vần thương nhẹ lim dim.”

Đức Maria không nôn nao mong đến ngày hạ sinh Đấng Tối Cao sao được khi mà trước đó chưa từng một ai thấy được Thiên Chúa. Mẹ không hạnh phúc sao được khi mà cái hữu hạn vô cùng nhỏ bé lại cung chứa cái vô biên vô cùng lớn, khi mà

“Mạch Nguồn Thơm dào dạt tỏa trong tim.”
Vì Thiên Chúa đã ban chính Con Ngài cho Mẹ, đã ban tất cả cho Mẹ, bởi vì chính Người Con này mà vũ trụ đã được tạo thành, và chính nhờ Người Con này mà nhân loại được ánh sáng và sự sống. Diễm tuyệt làm sao Thơ đang tung lên và Tình đang ngự đến!
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,thì chẳng có gì được tạo thành.
Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. (Ga 1, 3-4)

“Thơ tung lên khắp muôn thời lay động”
Vâng ! Thơ tung lên rồi cho thời gian ngước mắt chiêm ngưỡng, Tình tuôn tràn rồi cho trái tim mọng chín độ yêu. Những nhịp rung bất toàn giờ được lay động hòa vào tiết tấu của vô biên để thành giai điệu ngập tràn ánh sáng. Những dấu bước trở trăn giờ được ru êm trong Tình Thánh để trở nên cung bậc thắm tràn hương thiêng.
Vâng ! Thơ gọi thức muôn miền câu thương và Tình miết lay cả trái tim nhân loại, chỉ để gõ nhịp Trời vào sự sống sinh linh và viết vần yêu vào hồn cõi thế, cho ánh mắt nhẹ lim dim trong miền bình an và tiếng lòng thoảng dịu dàng trong Thần Khí.

clip_image020
Vâng ! Người Con tuyệt tác của Thiên Chúa đang nằm trong lòng Mẹ, đang đạp những bước chân thơ bé để đánh động câu đời nhân gian và rung khẽ nhịp yêu cứu độ. Mẹ đang ngây ngất ôm lấy Trái Tim huyền nhiệm của Trời cao và Mẹ đang tràn trào sống sự sống của Thiên Chúa ngay trong phút giây hiện tại. Chính nhịp đập thánh này làm cho Mẹ và những ai cưu mang Lời đều được ru trong kinh của trăng, trong hương của gió, để tất cả vần thương của tim trả lại cho thế giới sự an bình thắm tràn muôn thuở.
“Gõ nhịp Trời vần thương nhẹ lim dim.”
III.3. NIỀM VUI TRAO BAN
Không chỉ có Đức Maria, mà tất cả những ai được Thiên Chúa mời gọi nhận lãnh tình yêu của Ngài và quảng đại đáp lại tiếng gọi yêu thương đó đều không bao giờ giữ lại cho riêng mình.
Đọc lại hạnh tích của Mẹ Têrêsa Calcutta chúng ta sẽ cảm nghiệm sâu sắc về hạnh phúc đón nhận và niềm vui trao ban này.
“Ô thánh thót ! mưa ru ngợp muôn tiếng !

clip_image022

Cha muốn có những Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái, những linh hồn sẽ trở thành ngọn lửa tình yêu của Cha giữa thành phần thật nghèo khổ, thành phần bệnh nhân đau yếu, thành phần hấp hối lâm chung, thành phần những trẻ nhỏ sống ngoài hè phố. Thành phần nghèo khổ là thành phần Cha muốn con mang lại cho Cha, và các nữ tu sẽ hiến đời mình làm thí vật của tình yêu Cha sẽ đem những linh hốn ấy về cho Cha.
Con đã trở nên Hôn Thê cho Tình Yêu của Cha. Con đã đến Ấn Độ vì Cha. Con khát các linh hồn đã đưa con đến lúc này đây. Chẳng lẽ con lại sợ tiến thêm một bước nữa vì Vị Hôn Phu của con, vì Cha, vì các linh hồn hay sao? Hay là lòng quảng đại của con đã bị lạnh nhạt mất rồi? Cha đã trở thành thứ yếu đối với con rồi ư?

Con đâu có chết cho các linh hồn. Đó là lý do tại sao con không quan tâm tới những gì xảy ra cho họ. Lòng con đâu có bao giờ chìm ngập trong sầu đắng như Mẹ của Cha. Cả hai người Chúng Ta đã không hy hiến tất cả mọi sự cho các linh hồn cũng như cho con đó sao?

Cha biết rằng con là một con người bất lực nhất, yếu hèn và tội lỗi, thế nhưng chính vì con như thế mà Cha lại muốn dùng con cho vinh hiển Cha! Chẳng lẽ con lại chối từ ư!

Đó là những lời “Mưa ru” thật “thánh thót” vì nó “ngợp muôn tiếng” tình yêu, nó vang lên muôn giai điệu mà Thiên Chúa đã mời gọi Mẹ Têrêsa Calcutta cộng tác với Ngài trong mầu nhiệm cứu chuộc.

“Nét Xuân Tình trắng cả miền phong nhiêu”

Mẹ nghe tiếng Chúa thách thức: “Con sợ là con sẽ mất ơn gọi, sẽ trở thành người thế tục, sẽ bị đòi hỏi phải kiên trì nhẫn nại. Này con, ơn gọi của con là yêu mến, là chịu khổ đau và cứu rỗi các linh hồn, và theo đường bước đó con sẽ thỏa mãn nỗi khát khao của trái tim Cha đối với con”.
Con kêu cầu, con cố bám víu lấy, con ao ước điều ấy…. Nhưng chẳng có Ai đáp lời… chẳng có Ai để con tựa nương, không, chẳng có Ai hết… chỉ có trơ trụi một thân một mình con ... Đức Tin của con đâu rồi, tận đáy lòng con đây này, không có gì hết, chỉ là trống không và tăm tối. Lạy Chúa con… ôi sự khổ não xa lạ này quả thực là khủng khiếp… con mất đức tin mất rồi… !.

Những lời ấy, hay đúng hơn, tiếng nói đó đã làm cho con kinh hãi. Ý nghĩ ăn uống, ngủ nghỉ, sống động như những người Ấn Độ làm con hết sức sợ hãi. Con đã cầu nguyện dài, cầu nguyện rất nhiều. Con đã cầu với Mẹ Maria xin Chúa Giêsu cất hết những thứ này đi cho con. Càng cầu nguyện tiếng nói ấy càng mãnh liệt hơn trong tâm hồn con, nên con cầu nguyện là Người muốn làm nơi con bất cứ những gì Ngài muốn. Người vẫn cứ xin như thế.

Mẹ Têrêsa Calcutta đã run sợ trước lời mời gọi của Thiên Chúa, một lời mời gọi vượt khả năng và trí hiểu của Mẹ. Nhưng “Nét Xuân Tình” của Mẹ dành cho Thiên Chúa đã vượt thắng tất cả, đã bất chấp tất cả, giúp Mẹ đáp lại Tình Chúa hoàn toàn vô điều kiện “trắng cả miền phong nhiêu”.

“Hoa lắng khẽ mơn Ánh Hồng lúng liếng”

clip_image026

Con muốn lễ toàn thiêu của con được thiêu đốt như một của lễ hy sinh…. Con chỉ muốn thuộc về một mình Chúa Giêsu mà thôi… Con muốn dâng cho Người hết mọi sự kể cả mạng sống.
Đối với mẹ, cơn khát của Chúa Giêsu là một cái gì thân mật đến nỗi cho tới nay mẹ vẫn cảm thấy xấu hổ khi nói với các con về ngày 10/9/1946. Mẹ muốn làm như Đức Mẹ đã làm trong việc “giữ tất cả những điều ấy trong lòng mình”.

“Linh hồn con có thật nhiều mâu thuẫn: con mong muốn Chúa thật sâu xa đến nỗi đau khổ triền miên, nhưng lại thấy Chúa chẳng muốn gì con, thấy bị ruồng bỏ, trống vắng, không niềm tin, không tình yêu, không nhiệt tình.
Các linh hồn không còn là điều làm con hấp dẫn. Thiên đường không còn ý nghĩa, con chỉ thấy như là một nơi trống vắng.
Vậy mà con lại bị hành hạ vì lòng mong muốn yêu mến Chúa. Xin cầu nguyện để con vẫn mỉm cười với Người bất chấp những chuyện đó.”

Trước những điều không thể suy thấu được bằng trí hiểu của loài người, nhưng với ơn khôn ngoan của Thánh Thần đã giúp Mẹ Têrêsa Calcutta biết lắng nghe “Hoa lắng khẽ” để luôn mỉm cười và hạnh phúc khi đáp trả một cách quảng đại “mơn Ánh Hồng lúng liếng”.

“Ô bốn mùa ! tim say ướp mùa yêu !”

Con là của riêng Chúa. Xin hãy in ấn trên linh hồn con và đời sống con những khổ đau của tâm can Chúa. Đừng để ý gì tới những cảm giác của con – Thậm chí đừng lưu tâm gì tới nỗi đớn đau của con.
Giêsu ơi xin  nghe con nguyện cầu – nếu đẹp lòng Chúa – nếu nỗi đớn đau và khổ đau của con – tình trạng tăm tối và tách biệt của con hiến cho Chúa được một giọt ủi an – thì Chúa Giêsu của con ơi, xin hãy làm cho con những gì Chúa muốn nhé – bao lâu Chúa muốn, không cần để ý gì tới cảm giác và nỗi đớn đau của con.

Nếu tình trạng con lìa xa Chúa mà lại mang kẻ khác đến cùng Chúa, và nơi tình yêu và tình bạn của họ – Chúa cảm thấy hân hoan vui thỏa - thì tại sao, Chúa Giêsu ơi, con lại không hết lòng muốn chịu đựng tất cả những gì con đang trải qua – chẳng những hiện nay mà còn đến vô cùng bất tận nữa, nếu có thể được như vậy.

Chúa ơi, Thiên Chúa của con ơi, con là ai mà Chúa phải hất hủi con thế này? Con là đứa con của Tình Chúa yêu thương – mà bây giờ trở thành đứa bị Chúa ghét bỏ nhất, đứa bị Chúa vất đi, không cần đến nữa, không yêu nữa.

Chúa ơi, đau gì đau quá thế này, xưa nay con không thấy thế bao giờ. Con không dám nói ra thành lời thành ý những điều đang ngổn ngang trong lòng và làm cho con lên cơn hấp hối không lời nào tả xiết. Không đâu thưa Cha, con không lẻ loi một mình, con có đêm tối của Người, con có nỗi khổ của Người, con kinh khủng khát khao Thiên Chúa.”

Đau khổ nhất của tình yêu là cảm giác bị bỏ rơi. Mẹ Têrêsa Calcutta đã sống trong đêm tối của đức tin, đêm tối của sự lẻ loi, chán nản hầu như thất vọng. Nhưng sự khát khao Thiên Chúa một cách mãnh liệt trong Mẹ đã thanh luyện tất cả những thử thách đó “Ô Bốn Mùa” và càng làm cho Mẹ thêm yêu mến Chúa hơn “Tim say ướp mùa yêu”.

“Thơm khiết đi ! Tơ Xanh mầm duyên khảm !”

Ngài đến không phải là để mang một kiểu hòa bình cho thế giới hòng chúng ta không còn quấy rầy nhau nữa. Mà Ngài đến là để đem sự bình an đến trong con tim của chúng ta, một sự bình an xuất phát từ tình yêu, xuất phát từ việc làm những điều tốt đẹp cho nhau, và cho đồng loại.

Đừng nghĩ rằng một tình yêu chân chính phải là một điều gì phi thường. Điều cần thiết là yêu thương liên tục. Làm thế nào mà ngọn đèn cháy mãi nếu nó không được nuôi dưỡng bằng một giọt dầu? Khi hết dầu thì không còn ánh sáng và vị hôn phu sẽ nói: Tôi không biết các người.

Các bạn thân mến, những giọt dầu của ngọn đèn các bạn là gì? Đấy là những điều nhỏ nhặt trong đời thường: niềm vui, lòng quảng đại, những việc lành nho nhỏ, đức khiêm nhường và sự nhẫn nại.

Một suy nghĩ hướng đến tha nhân. Cách thức mà chúng ta thinh lặng, lắng nghe, tha thứ, nói năng và hành động.

Đấy là những giọt dầu chân chính giúp cho ngọn đèn chúng ta cháy mãi suốt cuộc đời mình.

Đừng tìm kiếm Chúa Giêsu ở nơi xa xôi, Người không có ở đấy đâu. Người đang ở trong các bạn, hãy chăm sóc ngọn đèn của mình rồi các bạn sẽ nhìn thấy Người.

Mẹ Têrêsa Calcutta xác tín rằng sự bình an, niềm hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là một sự bình an xuất phát từ tình yêu, xuất phát từ việc làm những điều tốt đẹp cho nhau, và cho đồng loại. Cho nên Mẹ vô cùng trân trọng những điều tốt đẹp đó “Thơm khiết đi” vì đó là ngọn đèn, là ánh sáng để Thiên Chúa nhìn ra chúng ta “Tơ Xanh mầm duyên khảm”.

“Hương ùa về đất rạng rỡ huyền siêu”



Nếu chúng ta không biết sẵn sàng để cho đi bất cứ điều gì là tốt đẹp nhất dành cho nhau, thì chúng ta vẫn còn đắm chìm trong tội lỗi, và tội lỗi đã che lấp chúng ta rồi.

Thương yêu là làm những chuyện nhỏ nhặt với tình thương bao la.
- Nếu bạn phán xét con người, bạn không có thời gian để yêu thương họ.
- Không phải là ta làm được bao nhiêu, mà là bao nhiêu yêu thương ta đặt vào việc làm. Không phải là ta cho đi bao nhiêu, mà là bao nhiêu yêu thương ta đặt vào việc cho đi.

Đó là lý do tại sao mà chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải trao cho nhau tất cả, dẫu việc cho đi đó có làm thương tổn, và có gây cho chúng ta sự đau đớn, khốn cùng.

Chúng ta phải nên Thánh, không phải để làm Thánh, mà là để dâng lên Đức Kitô cơ hội cho Chúa sống trọn vẹn trong chúng ta. Chúng ta phải đầy lòng thương yêu, tín thành, và thanh khiết, vì điều tốt lành cho những người nghèo khó mà chúng ta phụng sự. Một khi chúng ta biết cách tìm kiếm Chúa và ý Ngài, những tiếp xúc của ta với người nghèo sẽ giúp chính chúng ta và những người khác nên thánh.

Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu Kitô tràn ngập tâm hồn “Hương ùa về”, Mẹ Têrêsa Calcutta mới biết cách tìm kiếm Chúa và ý Ngài để sẵn sàng cho đi bất cứ điều gì là tốt đẹp nhất dành cho nhau, để dâng lên Đức Kitô cơ hội cho Chúa sống trọn vẹn trong chúng ta “đất rạng rỡ huyền siêu”.

“Ôm siết đi ! Tình Xuân vừa khẽ chạm !”

clip_image034

“Tất cả tình trạng lẻ loi cô độc của thành phần nghèo khổ, chẳng những cảnh nghèo khổ về vật chất của họ, mà còn cả cảnh cơ cực bần cùng về tinh thần của họ cũng cần phải được cứu vớt nữa, và chúng ta cần phải thông dự vào tình cảnh đó, nên hãy nguyện cầu khi các con cảm thấy khó khăn – ‘con muốn sống trong thế giới xa lìa Thiên Chúa này, thế giới rất lìa xa ánh sáng của Chúa Giêsu đây, để giúp đỡ họ – để ôm vào mình một điều gì đó từ nỗi khổ đau của họ’ ”.

Hỡi các con yêu quí của Mẹ, không có khổ đau, công việc của chúng ta chỉ là công tác xã hội, rất tốt và hữu ích, nhưng nó không phải là công việc của Chúa Giêsu Kitô, không phải là yếu tố cứu chuộc – Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta bằng việc chia sẻ đời sống của chúng ta, sự cô đơn của chúng ta, cuộc khổ ải và chết chóc của chúng ta.

Mẹ Têrêsa Calcutta không coi khổ đau là trở ngại khi sống yêu thương nhưng đón nhận đau khổ như là một yếu tố cứu chuộc “con muốn sống trong thế giới xa lìa Thiên Chúa này, thế giới rất lìa xa ánh sáng của Chúa Giêsu đây, để giúp đỡ họ – để ôm vào mình một điều gì đó từ nỗi khổ đau của họ” - Ôm siết đi”. Chính khi cùng sống với sự lẻ loi cô độc của thành phần nghèo khổ về vật chất và chia sẻ cảnh cơ cực bần cùng về tinh thần của họ mà Mẹ đã chạm được Thiên Chúa – Đấng Huyền Linh “Tình Xuân vừa khẽ chạm”.

“Ô bốn mùa ! chỉ là một mùa yêu !”


Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
• Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Và với Mẹ Têrêsa Calcutta, dù cho cuộc đời có thăng trầm muôn lối, cuộc sống có lắm nỗi khổ đau, thì tất cả những cung bậc trầm lắng và thánh thót đó, những giai điệu trữ tình đầy chất thơ đó “Ô bốn mùa” đang dệt nên khúc trường ca “chỉ là một mùa yêu”, làm cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm Mẹ quên trời cao và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân Mẹ tiến về bên Chúa.
“Ô bốn mùa ! chỉ là một mùa yêu !”

Bình Nhật Nguyên
(còn tiếp)


Mã số: 17-025

 

 

Độp, độp, độp…

Con bé đang trong tư thế bò trên mặt đất để cố lượm thật nhanh mấy trái xoài chín dưới gốc cây và mắt nó đảo theo ba trái xoài vừa rụng. Chiều nay, gió to nên xoài rụng nhiều. Nó đang rướn mình nhặt mấy trái xoài trước mặt thì chân nó trượt lên tàu lá chuối tươi. Con bé té sấp mặt trên đất. Như một phản xạ, nó kêu á một tiếng.

Không ngờ tiếng kêu của nó đánh thức ông Chữ. Ông la to lên: “Đứa nhóc nào đấy, lại lượm xoài nữa hả? Có đi ngay không ông ra đập cho một gậy bây giờ!”. Con bé vội túm lấy bọc xoài rồi chạy nhanh ra khỏi vườn chuối dù biết rằng ông Chữ không bao giờ bắt được nó vì ông Chữ chỉ có một chân. Nó vừa đi vừa lý luận rằng ông Chữ thật là khó tính, cái vườn này của bà Năm, em của ông nội nó mà. Cây xoài này đương nhiên là của bà Năm. Có lần bà Năm thấy hai chị em nó nhặt xoài thấy thương quá. Bà Năm nói dượng Sáu trèo lên cây hái cho hai chị em nó một thúng xoài chín. Thế là hai chị em khệ nệ khiêng thúng xoài về.

Dù phàn nàn ông Chữ nhưng con bé thấy tội ông lắm. Ông Chữ là người duy nhất trong làng của nó không phải là người Công giáo. Ông sống cô độc trong căn nhà mái lá vách đất. Nó nghe nội kể hơn ba mươi năm trước, ông Chữ cũng có vợ và một đứa con nhỏ mười tuổi, trạc tuổi nó bây giờ. Dân làng không biết nguồn gốc gia đình ông Chữ ở đâu; chỉ biết là ông Chữ cùng vợ con sống trên một chiếc ghe nhỏ. Họ ở đâu trôi dạt về khúc sông này. Thế rồi một đêm nọ, quân Mỹ ném bom xuống làng nó. Ghe của gia đình ông Chữ trúng bom. Sáng hôm sau, Bà Năm thấy ông Chữ nằm dưới gốc cây bình bát nhưng chỉ còn một chân, máu chảy ra nhiều. Ba ngày sau, người ta vớt được xác vợ và con trai của ông ở khúc sông dưới. Lúc đó, ông Chữ kêu la thảm thiết trong đau đớn, ông đập đầu vào tường, đấm vào ngực mình mặc cho nhiều người can ngăn. Thế rồi, một tháng sau, ông Chữ thôi khóc, chẳng ai biết ông không khóc nữa vì kiệt sức hay vì quá đau không thể đau hơn được nữa. Chỉ biết rằng nỗi đau đó đã làm teo tóp tâm hồn ông. Mọi người không còn thấy ông cười nữa; thay vào đó là tính thô lỗ, cộc cằn và dễ gắt gỏng với người khác. Xót thương cảnh đời của ông, bà Năm cho ông trú ngụ trong vườn chuối của mình. Dưới gốc cây xoài, người ta dựng cho ông một túp lều. Nhiều năm qua, túp lều được thay thế bằng căn nhà mái lá vách đất.

Hơn ba mươi năm, ông Chữ sống trong nỗi đau mất vợ con. Nỗi đau ấy quay quắt dày vò tâm hồn ông. Nhiều người khuyên ông theo Chúa nhưng ông im lặng. Có lần sau khi nghe bà Năm khuyên giải, ông đã quát to: “ Chị có ở trong hoàn cảnh của tôi đâu mà chị biết. Nếu Chúa của chị là Đấng yêu thương thì sao lại để cho tôi phải đau khổ như thế này?”. Lời động viên của bà Năm không thể nào xua tan đi nỗi đau gặm nhấm tâm hồn ông đã rất lâu khi mà bà chưa bao giờ mang nỗi đau như ông. Mà cũng khó lắm để vực dậy lòng ông Chữ khi mà vết thương thân xác cứ rõ mồn một. Hằng ngày, cái chân cụt cứ làm khổ sở ông về sự mất mát của thân xác ở hiện tại và nỗi đau tinh thần trong quá khứ. Đồng thời nó cũng nhắc ông về niềm hạnh phúc của một gia đình mà ông đã từng có. Đối với ông, dường như Thiên Chúa không thể giải thích được tại sao cuộc đời ông lại khốn khổ như thế này; Thiên Chúa ở nơi xa vời còn ông thì ôm nỗi đau của riêng mình.

Ông Chữ kính trọng ông nội con bé vì ông nội nó là người hiền từ và hay thương người. Dân làng nói về ông nội nó là: “ Ông Cát hiền như đất ấy”. Thỉnh thoảng, ông nội nó làm cho ông Chữ đôi nạng mới và ông nội nó cũng là người vất vả nhiều lần để xin các khoản tiền trợ cấp cho ông Chữ. Trước kia, ông Chữ cũng không thích nghe ông Cát nói về Chúa. Biết thế nên ông Cát cẩn thận và tránh nói chuyện trực tiếp về Chúa. Nhưng sau một sự việc xảy ra, ông Chữ đã thích nghe ông Cát nói chuyện nhiều hơn. Chuyện là một lần nọ vào ngày giỗ của vợ con ông Chữ, ông Chữ đã uống rất say, không ai biết là ông đã uống bao nhiêu chỉ biết là chưa bao giờ ông say khướt như thế. Ông Chữ không đi nạng nữa. Ông lết từ quán nhậu về nhà. Khi đến nhà ông Cát, ông Chữ không thể lết nổi nữa mà lăn ra ngủ trước sân. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên chiếc nệm của ông Cát. Còn ông Cát thì nằm trên chiếc chiếu nhỏ trải dưới nền nhà. Ông Chữ hỏi ông Cát: “Sao anh lại cho tôi nằm trên giường còn anh nằm dưới đất thế kia ?”. Ông Cát trả lời: “Tối qua, tôi thấy chú say quá, tôi sợ ban đêm chú nằm dưới đất có thể bị trúng gió nên tôi để chú nằm trên giường”.

Có lẽ cảm kích trước hành động bác ái của ông Cát nên ông Chữ ghé chơi nhà ông Cát nhiều hơn. Ông Cát thấy ông Chữ đi lại vất vả với cặp nạng nên ông cũng qua chơi nhà ông Chữ nhiều hơn. Thế là những câu chuyện của họ không dừng lại ở chuyện của hai người mà của những người quanh họ, rồi cả những người ở làng này và làng bên.

Khi biết ông Chữ đã quý mến và tin tưởng mình nhiều, ông Cát tìm cách nhen nhúm trong lòng ông Chữ niềm tin về Chúa nhưng không đi một cách trực tiếp mà ông bắt đầu từ nỗi sợ hãi ghê gớm nhất của bất kỳ một con người nào trên thế giới này. Đó là cái chết. Mỗi lần trong làng có ai qua đời, ông Cát đều kể lại cho ông Chữ nghe một cách tỉ mỉ. Có khi là một bà cụ chết trong đau đớn với căn bệnh ung thư. Có lúc là một chàng thanh niên đang khỏe mạnh, vui vẻ lại ra đi một cách bất ngờ vì tai nạn giao thông hay là một đứa bé té sông chết đuối... Và ông Chữ cũng có lúc suy nghĩ về cái chết của chính mình. Ông ước mong đi tìm một cái chết bình an thật sự chứ không phải là một cái chết để kết thúc mọi đau đớn đã tồn tại rất lâu trong lòng ông.

Vào buổi tối một ngày rằm, nước sông dâng lên cao và tràn vào hai bên bờ, con nước bò vào vườn chuối. Sáng hôm sau, cả vườn chuối uể oải vươn mình trong nắng ấm. Bà Năm nhận ra căn nhà mái lá đã ngập trong nước, bà mở cửa bước vào thì thấy ông Chữ đang nằm co ro trong con nước trên thanh giường kê cao hơn mặt đất một viên gạch. Bà báo tin cho ông Cát. Thế là ông Cát, bà Năm và người con trai của bà cùng dọn dẹp và phơi nắng mọi thứ đã bị ướt.

Sau lần nước lên cao đó, sức khỏe của ông Chữ yếu dần. Ông cũng không còn đủ sức chống nạng nữa. Một buổi tối, cả nhà con bé đang ăn cơm thì ông nội nó đi vào với vẻ mặt hốt hoảng, rồi nói vội với ba nó:

- Ba tụi nhỏ, bàn thờ nhà mày có hai cây thánh giá, mày cho tao cây thánh giá nhỏ đi.

- Tía cần cây thánh giá đó làm gì?

- Ông Chữ yếu lắm rồi, ổng muốn rửa tội. Cha xứ tới nhà ổng rồi nhưng không có cây thánh giá nào. Tao muốn lấy cây thánh giá của nhà mày để cho ổng.

- Tía để con lấy cho.

Nói rồi, ba con bé bắt ghế lấy cây thánh giá trên bàn thờ rồi cẩn thận trao cho ông nội nó.

Bước chân ra khỏi cửa, ông nội nó còn ngoảnh lại nói với cả nhà:

- Vợ chồng bây với mấy đứa nhỏ ăn cơm xong rồi qua đọc kinh cho ông Chữ một tí, chắc ông ấy không qua nổi đêm nay đâu.

- Dạ, cả nhà con sẽ qua. - Má nó thưa lại.

Nhìn thấy ông nội cầm cây thánh giá đi ra mà lòng con bé không vui. Nó không muốn mất cây thánh giá nhỏ đó; cây thánh giá quen thuộc của nó. Trước đây, khi nhà nó còn ở căn nhà mái lá vách đất giống như nhà của ông Chữ thì cây thánh giá nhỏ được đặt ở vị trí cao trọng nhất trong nhà. Mỗi lần cúp điện thì cây đèn dầu duy nhất của gia đình nó được đặt ở trên tủ, dưới chân cây thánh giá nhỏ. Và khi đọc kinh tối, nó chỉ chăm chú nhìn lên cây thánh giá nhỏ trên bàn thờ. Với lại, cây thánh giá cũng rất quen thuộc với nó từ khi nó mới hơn một tuổi, bi bô tập nói thì ba má nó thường chỉ lên cây thánh giá và nói với nó: “ Bé ơi! Ạ Chúa đi con”. Thế là con bé cúi đầu thật sâu và nói: “ Con ạ Chúa”. Nhưng con bé lại nghĩ chắc là ông Chữ cần cây thánh giá để có Chúa ở với ông Chữ nên nó không còn buồn nữa.

Tối nay, vườn chuối yên lặng lạ thường, các tàu lá chuối không còn xào xạc vào nhau nữa, cũng chẳng có ai nghe thấy tiếng ếch nhái kêu như mọi khi, chỉ có râm ran tiếng kinh nguyện của hơn mười người trong ngôi nhà nhỏ tồi tàn giữa vườn.

Tay nó nằm gọn trong bàn tay má nó. Con bé nhìn xuyên qua đám đông, nó thấy gương mặt hốc hác, đôi môi tái nhợt và đôi mắt lờ lệch với hai dòng nước mắt đang chảy xuống gò má xanh xao của ông Chữ. Chỉ mới bệnh nằm liệt một tuần mà ông Chữ tiều tụy quá, không còn một chút sinh lực nào. Lời kinh nguyện vẫn đều đều. Nó cũng thấy ông nội nó ngồi bên ông Chữ, chốc chốc lại đưa cây thánh giá của nhà nó lên môi ông Chữ để cho ông hôn. Hình ảnh ấy cứ đọng lại trong tâm trí con bé mãi đến sau này.

Mười giờ đêm hôm đó, tiếng chuông nhà thờ báo hiệu ông Chữ qua đời. Ông Toản đánh chuông cũng không ngờ có ngày tiếng chuông ấy được cất lên để dành cho ông Chữ. Đám tang không có một chiếc khăn tang cũng chẳng có nước mắt. Chỉ có sự tiếc thương sâu xa trong lòng ông Cát, bà Năm và vài chục người dân làng ở gần đó đã quen với sự hiện diện của ông Chữ trong cuộc sống hằng ngày của họ. Cha già chánh xứ dâng thánh lễ an táng cho ông Chữ. Gương mặt cha sáng ngời niềm hạnh phúc, cha nói: “Thiên Chúa luôn tỏ lòng nhân hậu thương xót tất cả chúng ta, Chúa đã cho ông Chữ được hưởng hạnh phúc thật sau khi ông đã chịu nỗi đau hơn ba mươi năm chôn sâu trong lòng. Người đã đi tìm ông từ rất lâu và Người đi vào trong ngõ ngách, díc dắc của nỗi đau ấy và vác lấy ông trên đôi vai của Người”.

Kết thúc thánh lễ, người ta đưa quan tài ông ra đất Thánh; nhà thờ thì cách xa đất Thánh. Trời về đông hơi se lạnh, đoàn người theo quan tài đi từ lúc nhá nhem tối cho tới khi những ánh bình minh ấm áp bắt đầu cho một ngày mới xuất hiện. Cuộc đời ông Chữ cũng đã đi từ đêm tối cho tới khi ông đón nhận ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa trên ông.

Vườn chuối yên tĩnh, ngôi nhà mái lá vách đất im lìm như chủ nhân của nó đã bất động dưới mộ phần. Chiều nay, bà Năm gọi hai chị em con bé qua hái xoài, chị nó trèo cây giỏi như một con sóc và hái xoài vứt xuống đất cho đứa em nhặt.

Con bé chợt nhớ ông Chữ rồi hỏi chị:

- Chị Hai ơi! Ông Chữ bây giờ ở trên thiên đàng rồi hả chị?

- Ừ.

- Có phải vì ông Chữ đã hôn cây thánh giá không?

- Ừ, chị nghĩ là như thế.

- Vậy ông Chữ có mấy chân, một hay hai?

- Chị nghe ông nội nói ông Chữ là thiên thần rồi thì chắc chắn ông Chữ có hai chân.

Nhiều năm sau, câu chuyện về cuộc đời ông Chữ vẫn còn in trong tâm trí con bé. Khi kể chuyện cho mấy đứa nhỏ khác nghe, bao giờ nó cũng kết thúc bằng câu: “Ông Chữ bây giờ là thiên thần hai chân rồi!”


Nắng nhạt, rừng tùng lách tiếng ca
Bên đèo em ngắm chân trời xa
Dưới đèo bóng mát lan bờ ruộng
Em cởi niềm ra, trải ý ra.
Hơi thở em nồng trộn với hương
Với làn gió nhẹ với tình thương
Bao la như cảnh trong mơ ước
Tôi chỉ yêu em ở dọc đường.
Vì chưng tâm trí chỉ băn khoăn
Đến sắc yêu kiều của mỹ nhân
Ở chỗ sông hồ hay quyến luyến
Ở nơi tình tự của hoa trăng.
Vì chưng u uẩn của lòng tôi
Chỉ biết khơi ra tản giữa trời
Vào lúc nắng chiều thôi rỡn lá
Vào hồi suối lặng gió chơi vơi
Vì chưng ý nghĩa của tình yêu
Chỉ giải ra khi nhạt bóng chiều
Và chỉ phô trương màu nghệ thuật
Trên làn sóng áo lúc đìu hiu.
Vì chưng tất cả vẻ ngây thơ
Quyến rũ mê hồn của gái tơ
Chỉ lộ nên tình trong sạch được
Là nhờ đứng lặng cảnh trong mơ.

Tôi chỉ yêu em như thế này
Luôn bây giờ với mãi sau đây
Lòng tôi áy náy trong khi gió
Rủ rỉ bên tai chuyện nước mây...
Hàn Mạc Tử
(Trích trong tuyển tâp Có Một Vườn Thơ Đạo)






























Kính thưa quý ân nhân, quý tác giả và bạn đọc VVYT,
Trước tiên, BTC xin kính chúc quý ân nhân, quý tác giả và bạn đọc Mùa Xuân Mới Đinh Dậu được An Khang và Hạnh Phúc và tràn đầy ơn Chúa Xuân !
Chúng tôi xin giới thiệu lá thư cám ơn của em Lưu Thùy Dương, quê Hưng Hóa, một trong hai tác giả ngoài Công Giáo tham gia phong trào Viết Về Yêu Thương. Em gửi lời cám ơn BTC, nhưng qua chúng tôi em còn muốn gửi lời cám ơn tới quý ân nhân, quý tác giả. Sự thật là nếu không có sự tham gia của quý vị, thì phong trào cũng chỉ là hữu danh vô thực! Phần chúng tôi không làm gì đáng kể ngoài  làm một nhịp cầu nho nhỏ cho mọi người giao lưu vào chia sẻ. Sau đây là nội dung thư:
“Kính gửi BTC cuộc thi Viết Về Yêu Thương!
Em là Lưu Thuỳ Dương, một người ngoại Đạo, vô tình được giới thiệu và biết đến với cuộc thi Viết Về Yêu Thương. Thật sự với riêng em, tham gia vào cuộc thi này là một may mắn. Từ ngày đầu tiên khi em được cô Hoa giới thiệu tham gia cuộc thi, em không nghĩ mình có thể được trải lòng, được đem câu chuyện của mình nói ra để mưu cầu sự yêu thương dành cho những con người còn bất hạnh.
Với em, cuộc thi này đã đem đến cho em cái nhìn mới về tình người, về sự đồng cảm sẻ chia. Được đọc, được biết đến với nhiều câu chuyện của những người trong Đạo thực sự đã làm thay đổi suy nghĩ trong em. Họ là những con người đã dùng cả trái tim, cả tấm lòng gửi gắm vào những câu chuyện để truyền đạt đến tất cả mọi người những thông điệp yêu thương thật đáng trân trọng. Chính những điều ấy đã dẫn dắt em có cơ duyên để đến với cuộc thi này. Và thật sự, với em, một người ngoại Đạo lần đầu tham gia cuộc thi, chưa hề có kinh nghiệm, chưa hề biết dùng ngòi bút của mình để truyền tải điều gì đó, thì cuộc thi Viết Về Yêu Thương lại chính là khởi nguồn cho những điều chưa bao giờ được nói ra trong em. Em đã viết bằng chính những suy nghĩ ấy. Nhưng đó chỉ là một phần nhỏ may mắn.
Điều may mắn hơn với em, là khi em nhận được phần quà từ một tác giả được giải đã trao tặng cho em. Ngày mà em được nhận phần quà ấy, thật sự là cả một nỗi vui mừng và hạnh phúc. Với một người ngoại Đạo như em, tham gia cuộc thi với nhiều những thiếu xót, em thật sự biết ơn khi em được dẫn dắt và tham gia vào cuộc thi này. Cũng qua đây em muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Ban tổ chức cuộc thi Viết Về Yêu Thương đã tạo điều kiện để em có thể gửi bài viết và tham gia vào cuộc thi. Em cũng muốn gửi lời cám ơn cô Hoa, người đã giới thiệu em biết đến với trang Văn Thơ Công Giáo, đến với Viết Về Yêu Thương, người đã khơi nguồn cho những cảm hứng về yêu thương trong em. Và hơn hết, em muốn gửi lời cám ơn của em đến với tác giả được giải đã trao tặng cho em một phần quà thật sự quý giá, em sẽ lấy đó để làm động lực tiếp tục với những trang Viết Về Yêu Thương của em sau này.
Một lần nữa em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của mọi người đã dành cho em! Và nếu có điều kiện em sẽ tiếp tục tham gia viết bài và cùng đồng hành với " Viết Về Yêu Thương”.
Lưu Thùy Dương”.

Thùy Dương thân mến,
BTC rất vui khi đọc thư của em. Cám ơn em nhiều ! Em xưng mình là “người ngoại Đạo” tuy nhiên, hiểu theo nghĩa rộng, chúng tôi tin em cũng ở trong “Đạo Yêu Thương” rồi. Những gì em viết đã chứng tỏ điều đó như Kinh Thánh nói:“…Thiên Chúa là Tình Yêu: Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa” (1 Gn 4,16). Có lẽ em nên dùng từ “ngoài Kitô giáo” thì hay hơn.
Xét cho cùng, cuộc đời chúng ta là chuỗi hồng ân, từ hạt mầm đức tin yêu thương, cho đến tất cả những gì mình cũng như mình , từ bầu không khí hít thở từng giây phút cho đến hạt cơm ăn mỗi ngày đều do ơn Chúa ban qua thiên nhiên, ông bà, cha mẹ, thầy cô, anh chị em bạn bè, qua Giáo hội cũng như xã hội…vv.
“Này em gạo trắng hai mùa
Mưa hòa gió thuận là quà Chúa trao
Bắp khoai rau đậu dồi dào
Sức người góp một, trời cao giúp mười”
(St)
Được lãnh nhận nhưng không thì chúng ta cũng được mời gọi trao ban như vậy, phải không Thùy Dương ? Chúng tôi tin quý ân nhân ẩn danh cũng như hai tác giả được giải (Phương Thảo và Khánh Nguyên), đã dành tặng phần quà lại cho em và Thùy Linh một cách vô tư như thế.
Đọc thư của em, chúng tôi chợt nghĩ tới một tấm gương khác được kể lại trong Kinh Thánh:
Trên đường lên Giêrusalem, Ðức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!" Thấy vậy, Ðức Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế". Ðang khi đi thì họ đã được sạch. Một người trong bọn, thấy mặt được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Ðức Giêsu mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" Rồi Người nói với anh ta: "Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh" (Lc 17,11-19)”
Có thể ai đó sẽ lại “vô tình” đặt câu hỏi như: Không phải tất cả quý tác giả đều nhận được quà tặng sao ? Thế thì những tác giả đạt giải khác đâu ? Sao không thấy đăng thư cám ơn, mà chỉ có thư của một “người ngoại Đạo” này ?
Sự thật thì quý tác giả nhận được quà đều đã gửi thư cám ơn, hoặc gửi tin nhắn. Thậm chí, có tác giả chỉ tham gia viết bài một cách vô tư mà không muốn nhận quà tặng, Thùy Dương ạ. Thật là tử tế phải không em ?! Lời bình trong bộ phim nổi tiếng Chuyện Tử Tế có đoạn:
“Tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi giòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có những nỗ lực tột bực và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ, và cả người lớn, đầu tiên vào việc học làm người - người tử tế, trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành những người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm” (mời em cùng xem lại 30 Năm phim Chuyện tử tế https://www.youtube.com/watch?v=aAYk42NxwuU)
Cuối cùng, xin nguyện chúc tất cả quý vị một mùa xuân Đinh Dậu tràn đầy Tin-Yêu- Hi Vọng, tiếp tục làm những sứ giả Viết Về Yêu Thương, đánh thức sự tử tế từng ngày trong cuộc sống cho cuộc đời thêm xuân.
Trân trọng
BTC

Mã số: 17-024
 

- Hiền, Cu Tý, hai con dậy mau, đến giờ đọc kinh sáng rồi.
Vừa nói, bà mẹ vừa hối thúc hai đứa con thức dậy. Đã thành thói quen, Hiền thức dậy mau lẹ, bước ra khỏi chăn ấm. Còn Cu Tý thì nũng nịu:
- Hư… Cho con ngủ tí nữa!

- Chàng Đa-vít dũng cảm, thức dậy nào. - Hiền khuyến khích em.
Hiền cất chiếc chăn đi, xếp gọn gàng. Cu Tý cố ngồi dậy, tay dụi vào mắt. Trời mùa đông ở quê lạnh lẽo, tiếng gió ngoài cửa sổ rít lên từng hồi. Một lát sau, cả ba mẹ con đã hiện diện trước bàn thờ. Vì nhà quá xa nhà thờ, đường đi lại khó khăn, nên gia đình không thể đi tham dự thánh lễ Mi-sa buổi sáng. Đổi lại, sáng nào cả gia đình cũng quây quần trước bàn thờ, đọc kinh dâng ngày mới lên Chúa và Đức Mẹ. Lần năm chục hạt xong, người mẹ xuống bếp chuẩn bị bữa ăn sáng cho hai đứa đến trường. Hiền và Cu Tý quét dọn nhà cửa và ôn lại bài. Người mẹ ngoài đọc kinh chung, bà còn đọc kinh riêng, vừa nhóm lửa, vừa lần hạt:
- Kính Mừng Ma-ri-a… Hiền con, trời sắp sáng, con chống cái rèm lên… Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ, hơn mọi người nữ, và Giê-su con lòng bà gồm phúc lạ…
Nhịp sinh hoạt của mẹ con Hiền sáng nào cũng thế. Nó đã thành nếp sống.
Bẵng một thời gian, Hiền đậu vào đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Cái ngày xa mẹ, xa Cu Tý đã đến gần. Buồn vui lẫn lộn trong con người của Hiền. Trước khi khăn gói lên đường, mẹ dặn:
- Con gái à, được vô đại học là niềm mơ ước của con và nhiều đứa bạn cùng trang lứa. Mẹ hãnh diện và tự hào về con. Gia đình ta tuy khó khăn, nhưng mẹ sẽ cố gắng chu cấp hết sức có thể để con an tâm học hành. Nhưng điều mẹ băn khoăn nhiều nhất đó là từ nay con phải sống tự lập, đứng trên đôi chân của mình. Cái quan trọng là con phải giữ gìn sức khỏe, có sức khỏe tốt con mới mong làm được mọi việc. Con hãy gắng chăm sóc bản thân và tập thích nghi với môi trường mới nghe con.
Người mẹ cố giữ bình thản trước mặt con. Bà đưa tay Hiền lên và đặt tràng chuỗi Mân Côi trong lòng bàn tay Hiền, khẽ nói:
- Hiền con, làm gì thì làm, bắt đầu ngày mới, con hãy luôn nhớ Chúa trước hết nghe con. Con hãy siêng năng lần hạt, trò chuyện với Đức Mẹ. Con biết không, ngày ấy con sinh thiếu ngày, tưởng không qua khỏi, mẹ đã khấn Đức Mẹ giữ gìn con, thế là con qua khỏi. Chúa và Đức Mẹ thương con cách đặc biệt lắm.
Lúc này, thằng Cu Tý đang khóc nức nở vì nó sắp phải xa một người chị, một người bạn tinh thần ngày ngày nô đùa với nó. Hiền rất thương Cu Tý. Mỗi lần ở nhà, hai chị em quấn quýt lấy nhau như hình với bóng. Hiền đặt hai bàn tay lên đứa em, rồi tỏ ra mạnh mẽ:
- Chàng Đa-vít của chị ở nhà khỏe và ngoan nha, chị hứa sẽ thường xuyên gọi điện thoại cho Đa-vít.
Cu Tý khóc mếu máo:
- Chị hứa đó nha…
Thế rồi Hiền xa rời mái ấm gia đình thôn quê bình yên sau lũy tre làng, để đến một thành phố hoàn toàn xa lạ. Ấn tượng ban đầu của Hiền khi đặt chân đến Sài Gòn, đó là sự ồn ào náo nhiệt của nhiều phương tiện tham gia giao thông, đông đúc người qua lại. Sài gòn “Hòn ngọc viễn đông” một thời, nay vẫn còn mang dấu ấn và nhịp sống của một vùng kinh tế năng động.
Được nhóm anh chị sinh viên Công Giáo Thiên Ân giới thiệu, Hiền đã thuê được một chỗ trọ khá ưng ý. Nó ở cùng phòng với hai người bạn: một người Công giáo, một người theo đạo Tin Lành. Chẳng mấy chốc, Hiền đã thích nghi với môi trường mới, cả ba đối xử với nhau rất tốt, coi nhau như một gia đình.
Với vóc dáng dễ nhìn, má lúm đồng tiền, miệng biết cười, Hiền nằm trong tầm ngắm của nhiều chàng trai khoa luật. Hùng, một chàng trai học luật thương mại đem lòng yêu Hiền từ cái nhìn đầu tiên. Duyên tình đưa đẩy, đẩy đưa. Cả hai đều tham gia chiến dịch thanh niên tình nguyện năm thứ hai. Không hẹn mà hò, Hiền và Hùng được cử đến Trà Vinh giúp các em tập đọc, tập viết từng con chữ. Tình cảm giữa hai người nảy sinh. Hai tâm hồn đồng điệu, họ đem lòng yêu nhau.
Trở lại giảng đường đại học, tình cảm của hai người ngày càng thắm thiết. Nhìn đôi trai tài gái sắc, bạn bè ai cũng ngưỡng mộ, pha lẫn chút ghen tỵ. Một hôm, giờ ra chơi, thấy Hiền ngồi nơi hàng ghế đá. Hùng tiến lại gần, thấy Hùng, Hiền hớn hở:
- Hùng nè!
- Chuyện gì mà nghiêm trọng vậy cô nương? - Hùng ghé vào tai Hiền.
- Tối nay, Hiền mời Hùng đi tham gia sinh hoạt với nhóm Hiền được không?
- Nhóm nào thế? - Hùng ngạc nhiên.
- À, nhóm sinh viên công giáo Thiên Ân. Hiền tham gia nhóm này được hai năm rồi. Nhóm sinh hoạt vào tối thứ bảy hàng tuần. Bên Công giáo của Hiền, tháng này là tháng mười, là tháng Mân Côi, tụi Hiền tối nay ngoài sinh hoạt sẽ cùng nhau lần hạt cầu nguyện cho những người đau khổ, bất hạnh.
Hùng nói chậm rãi:
- Mà Hùng có theo đạo đâu, ngại lắm!
- Không sao Hùng à, nhóm Thiên Ân có nhiều bạn không theo đạo, nhưng vẫn tham gia sinh hoạt đều đặn, vui và ý nghĩa lắm. Tối nay, Hùng thử đến xem sao. Với lại, tối nay Hiền sẽ chủ trì giờ cầu nguyện đó.
- Ừ, thì chiều cô nương vậy, miễn là cô nương vui thì Hùng này có phải dẫm lên gai nhọn, hay vào chốn rừng sâu nước độc, cũng sẵn sàng.
Hiền reo lên:
- Cám ơn hoàng tử của em…!
- À, mà cô nương, cho Hùng này thắc mắc tí nha?
- Ông anh cứ hỏi, cô nương này sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc cho ông anh.
- À, chuyện nhà đạo mà, Hùng thấy người Công giáo bên Hiền yêu mến Mẹ Chúa Giê-su lắm, nhà Hùng chỉ theo đạo ông bà thôi, nhưng nhà Hùng lại ở gần nhà thờ lắm, mỗi lần đi qua thấy người già con nít lần hạt lải nhải suốt ngày mà không thấy chán.
Hiền nhanh nhảu đáp:
- Đúng rồi, bên Công giáo tụi Hiền yêu mến Đức Mẹ lắm, Mẹ của Hiền sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tay thì làm, miệng thì lần chuỗi suốt ngày. Mà Hiền hỏi Hùng nha, khi ông anh yêu cô nương này, điều gì làm ông anh sướng tai nhất?
- Đương nhiên là “ I love you, em yêu anh” rồi. Hùng đáp ngay.
- Thế ông anh nghe mãi rứa có chán không?
- Sướng thấy mồ, chán sao được. - Hùng tủm tỉm.
- Thì người Công giáo cũng vậy, chán sao được, khi tụi Hiền lần hạt là tụi Hiền đang tỏ mối tình với Mẹ Thiên Chúa, tình mẹ con “con yêu mẹ, mẹ yêu con”, cũng giống như đứa trẻ gọi mẹ, gọi ba của nó. Sung sướng lắm Hùng à. Hiền đắc chí.
- Thế nói yêu Chúa, yêu Đức Mẹ là được rồi cần gì phải đến nhà thờ đi lễ, cứ sống như tụi Hùng đây nè, sáng sớm nhà ngủ ngon, lương tâm sống cho trong sạch là ok rồi.
Có vẻ đắc chí với câu hỏi này, Hùng luồn hai cánh tay vào eo của Hiền, áp nhẹ má của mình lên má bên trái của Hiền. Nhưng Hiền liền đẩy hai tay Hùng ra và ngồi xa Hùng.
- Sao thế cô nương, cho Hùng xin lỗi nha, vì đưa cô nương vào thế khó hì.
- Không đâu ông anh. Như ông anh nói thì kể từ nay trở đi chúng ta gặp nhau nói chuyện, giữ khoảng cách, miễn là trong tâm “anh yêu em, em yêu anh” là được, cần gì phải bá vai, bá cổ, xoa tóc, xoa đầu. Hiền tỏ ra vui vẻ.
Hùng thấy Hiền đối đáp thông minh và có lý. Chợt tiếng trống trường vang lên. Hiền nói vội vã:
- Cứ thống nhất vậy nha Hùng, tối nay hẹn gặp Hùng ở dãy trọ, bye…bye…
Hùng gật đầu khoái trá. Hai người chia tay vào lớp. Tan giờ học, điện thoại Hiền rung lên. Thấy số điện thoại của mẹ hiện lên trên màn hình. Linh tính như mách bảo cho Hiền biết có chuyện chẳng lành. Hiền bắt máy:
- A lô, Hiền phải không con.
Hiền nghe giọng của một người đàn ông bên kia giây.
- Dạ, con xin lỗi ai đang gọi cho con đây à?
- Cậu Luận đây con, cậu lấy điện thoại của mẹ con để điện thoại cho con. Giờ con hãy bình tĩnh nghe cậu nói.
Môi Hiền rung lên, đoán là có chuyện hệ trọng, Hiền cố giữ bình tĩnh:
- Dạ, chào cậu, cậu cứ nói, con xin nghe.
- Hiền à, Cu Tý em con bị tai nạn đã ba ngày rồi, em con vẫn đang hôn mê, trong bệnh viện. Lẽ ra, mẹ con không muốn cho con biết, sợ con lo lắng, nhưng vì tình trạng sức khỏe của Cu Tý đang nguy kịch, sợ không qua khỏi, nên mẹ con nhờ cậu gọi cho con.
Lúc này tay Hiền run lên, chiếc điện thoại rơi khỏi bàn tay lúc nào không biết. Như tiếng sét xẹt bên tai Hiền. Với Hiền, Cu Tý là người em yêu quý không thể thiếu trong cuộc sống. Cu Tý đã quá ăn sâu vào tâm hồn Hiền. Lan, người bạn thân của Hiền, biết chuyện của gia đình Hiền. Lan cố trấn an Hiền và chở Hiền về dãy trọ. Cả buổi chiều Hiền thẫn thờ, tất cả mọi tâm trí cứ dồn về cho đứa em bé bỏng của mình. Lưỡi hái tử thần đang kề bên nó. Bàn tay Hiền không xa rời chuỗi hạt Mân Côi mà mẹ Hiền tặng khi mới nhập học. Hiền nức nở:
- Chúa ơi, không thể thế được, chả lẽ Ngài lấy đi người em yêu quý của con. Ma-ri-a Mẹ ơi, con phải làm gì đây, xin Mẹ thương đến em con.
Hiền khóc như trẻ con, nức nở trông thảm thiết. Lời Kinh Kính Mừng đọc bị ngắt quãng trong tiếng nấc nghẹn ngào.
Như đã hẹn, Hùng đến dãy trọ, chở Hiền đến chỗ sinh hoạt của nhóm Thiên Ân. Hùng không hay biết chuyện của Hiền. Cả nhóm gặp nhau, trò chuyện vui vẻ. Đến với nhóm không phân biệt tôn giáo, địa vị, xuất xứ. Tất cả làm nên một vòng tròn yêu thương. Tối nay, như đã phân công, Hiền chủ trì giờ lần chuỗi. Thánh giá và tượng Đức Mẹ được đặt trên một cái giá trang trọng giữa vòng tròn. Chung quanh tượng có 20 ngọn nến được thắp lên, tượng trưng cho 20 Mầu nhiệm Kinh Mân Côi. Đây là lần đầu tiên Hùng đến đây tham dự buổi cầu nguyện với các bạn của Hiền. Hùng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Một bầu khí yên tĩnh, ấm áp, thanh bình như đưa con người vào cõi sâu thẳm của tâm hồn, để gặp gỡ Đấng mà người Công giáo gọi là Thiên Chúa. Có một cái gì linh thiêng mơn man đến vô cùng đang xâm chiếm con người Hùng. Anh chưa cảm nhận được như thế bao giờ. Trước đây, cứ tối thứ bảy, Hùng và mấy đứa bạn thường tìm đến các quán bar, vũ trường sôi động, như con thiêu thân, quay cuồng theo điệu nhạc mạnh. Nhưng tâm hồn anh vẫn luôn thấy bất an và mệt mỏi sau mỗi cuộc vui. Thì đây, trước ánh nến chập chùng dưới màn đêm yên tĩnh, có một sức mạnh vô hình làm cho Hùng dễ chịu vô cùng. Người ta vẫn thường nói màn đêm là hình bóng của cái chết. Nhưng sự hiện diện của con người ngước về trời cao trong đêm đen, thì nó mặc cho đêm đen một màu sắc thiêng liêng, huyền diệu. Điều mà người Công giáo vẫn cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa khi mọi người quy tụ lại: “Ở đâu có hai ba người tụ họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ (Cf. Mt 18, 20)”.
Các bạn sinh viên lần chuỗi sốt sắng. Hiền là người hướng dẫn các bạn cầu nguyện. Đến Mầu nhiệm thứ năm Năm Sự Vui, tâm trí Hiền tự nhiên quay cuồng. Đôi bàn tay Hiền chắp tay khẩn thiết lên Mẹ. Tràng chuỗi run theo nhịp rung của đôi tay. Hiền không xướng nổi mầu nhiệm này. Cả nhóm đưa con mắt về phía Hiền. Lúc này, mọi kỷ niệm của Cu Tý ùa về trong tâm trí Hiền. Khi ở nhà, Cu Tý luôn cầu nguyện những lời đơn sơ nhất. Nó nói với Chúa, với Đức Mẹ, như đứa con nói chuyện với Mẹ. Tâm hồn trẻ thơ là thế. Hiền còn nhớ từng lời mà Cu Tý cầu nguyện cho chị nó trước ngày thi đại học:
- Xin Đức Mẹ cho chị con đỗ đại học, cho chị có công việc ổn định để giúp đỡ gia đình, sau này cưới một chàng hoàng tử cao to, tốt bụng, Mẹ Ma-ri-a nhậm lời Cu Tý nha.
Chợt cái Lan, bạn thân Hiền cất lên:
- Thưa các bạn, người em ruột của Hiền bị tai nạn, hôn mê đã ba ngày rồi, sợ không qua khỏi. Hiền đau đớn lắm. Bạn ấy tính mai về quê…Giờ đây, chúng ta cùng nắm tay lại, dâng lên Mẹ Mầu nhiệm thứ năm này, qua Mẹ xin Chúa cho gia đình Hiền được bình an, em Cu Tý được mau khỏi.
Không ai bảo ai, cả nhóm tay trong tay, nắm chặt tay nhau cùng đọc to lời kinh quen thuộc “Kính mừng Ma-ri-a…Thánh Ma-ri-a…”. Lời kinh vang vọng giữa bầu trời mênh mông. Tất cả như cộng hưởng tạo nên một tiếng kêu thấu đến trời cao. Đôi mắt Hiền lúc nãy đến giờ cứ đăm đăm nhìn vào tượng Mẹ. Hùng lấy hết sức can đảm mân mê lên bàn tay của Hiền. Bất chợt tay của hai người nắm lấy tràng chuỗi, báu vật bất ly thân của Hiền. Hùng run bắn cả người vì bàn tay chạm phải một vật linh thiêng, báu vật mà Hiền có lần chia sẻ “đó là vũ khí sức mạnh của người Công giáo đó”. Như có một sức mạnh vô hình trấn an Hùng, giúp Hùng càng vững tâm hơn. Ngón tay của Hiền vẫn đếm từng hột một, miệng thì thào theo lời kinh, trong khi đôi mắt không rời tượng Đức Mẹ. Lời kinh hòa lẫn với nước mắt. Giây phút thụ tạo ngỏ với trời cao. Đứa con nài nỉ xin Mẹ nó bằng những lời kinh tuy đơn sơ nhưng bằng tất cả tấm lòng chân thành.
Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn mờ tối, điện thoại Hiền rung lên. Hiền bắt máy, thì từ bên kia có tiếng nói nghẹn ngào:
- Hiền ơi, Cu Tý em con đã tỉnh lại…
Đó là giọng của mẹ Hiền. Nó như không tin vào tai của mình, ngập ngừng từng tiếng một:
- Mẹ… nói gì… con… nghe… chưa… rõ…
- Em con đã tỉnh lại rồi con à, tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ…
Hiền như vỡ òa sự sung sướng. Tưởng như ai cất đi khỏi nó khối u nặng trĩu trong người. Nó khóc như trẻ con, khiến cả dãy trọ tỉnh giấc. Hiền nghẹn ngào:
- Em con tỉnh lại lúc mấy giờ hả mẹ?
- Đêm qua, khoảng 8 giờ 30 tối, lúc đó gió bão mạnh lắm, gọi cho con mà không được.
Hiền nhớ lại đêm qua đây là khoảng thời gian Hiền và các bạn đang lần chuỗi, cầu nguyện đặc biệt cho Cu Tý. Hiền tin là nhờ Đức Mẹ can thiệp làm cho em nó tỉnh lại. Hiền vội chạy lại phía đầu giường cầm tràng chuỗi lên, quỳ gối xuống, hôn lấy hôn để:
- Mẹ ơi… Con cám ơn Mẹ, nhờ Mẹ mà Chúa đã cứu em con. Đây là phép lạ. Mẹ đã nhậm lời gia đình con.
Chợt phòng trọ bên cạnh ai đó mở bài “Lời Mẹ nhắn nhủ”: “Năm xưa trên cây sồi, làng Fa-ti-ma xa xôi, có Đức Mẹ Chúa Trời, hiện ra uy linh sáng chói…”. Hiền nhìn lên tờ lịch treo tường, hôm nay là ngày 13-10, ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra tại Fa-ti-ma. Hiền và hai người bạn cùng phòng hát theo bài hát một cách say sưa, đầy tin tưởng.








































































Được tạo bởi Blogger.